Với tôi, đọc thơ là một sở thích cá nhân. Trong tư cách độc giả, tôi không tìm kiếm điều gì hơn ngoài việc nhờ thơ chia sẻ, giải tỏa tâm trạng, cảm xúc của mình. Cái hay của thơ, do vậy, được định nghĩa bằng việc nó thiết lập nhanh hay chậm sự đồng cảm, mức độ sâu sắc của ẩn dụ và khả năng khêu gợi cảm giác, cảm xúc nhờ vào những từ “hay”, “đắt”, nói theo cách giáo khoa thư. Nhưng càng ngày, cùng với việc phải tìm hiểu sâu hơn về thơ, tôi càng phải đối mặt nhiều hơn với những câu hỏi. Bài thơ này có hay không? Câu hỏi quen thuộc ấy hóa ra lại là khởi đầu của rất nhiều câu hỏi phức tạp khác. Nhưng thế nào là một “bài thơ hay”? Và hơn thế nữa. Thế nào là thơ? Đâu là ranh giới phân định cái gọi - là - thơ và cái không - phải - thơ? Cái gì thực sự tạo nên “tính thơ”?
Vấn đề càng nảy sinh khi ta tiếp xúc với các hiện tượng cụ thể, nhất là thơ hiện đại. Có lẽ chưa bao giờ quan niệm về thơ/ tính thơ lại xa nhau đến thế. Cùng với điều đó, có quá nhiều cách đọc khác nhau, thậm chí mâu thuẫn gay gắt, khiến câu trả lời về nghĩa/ ý nghĩa của tác phẩm càng khó tìm được điểm chung. Trước thực tế ấy, tôi cho rằng, muốn đọc hiệu quả, cần có tư duy đọc hiện đại. Đấy là một mô hình tiếp cận và lý giải văn bản vừa có điểm tựa lý thuyết vừa gắn liền trải nghiệm đọc cụ thể, giúp đọc đúng tác phẩm. Về điều này, xin được nói thêm như một lưu ý nhỏ về phương pháp luận, dù vấn đề không mới. Ta biết rằng giữa tư duy độc giả và tư duy nghệ sĩ không phải lúc nào cũng gặp nhau, ngay cả trong trường hợp người viết đồng thời là người đọc. Trong khi một số nhà thơ thường có xu hướng đồng nhất mình với nhân vật trữ tình thì độc giả có thể chỉ quan tâm đến tác phẩm như một cấu trúc thẩm mĩ tự thân. Do đó, sự “lệch pha” giữa sự viết (của nhà thơ) và sự đọc (của độc giả) là điều hiển nhiên. “Đọc sai” trong trường hợp này chỉ có nghĩa là đọc không đúng với “thông điệp” mà tác giả có ý thức gửi gắm (và có thể được tác giả xác nhận), nhưng hoàn toàn không sai nếu nhìn từ quan niệm đọc - diễn giải tác phẩm, một khi sự diễn giải đó là có cơ sở.
Dĩ nhiên,
một tư duy đọc hiện đại và cởi mở không dễ có ngay từ đầu. Nó có thể hình thành
từ những tri thức lí thuyết khi ta học/ đọc, và chắc chắn sẽ thay đổi, mở rộng
khi tiếp xúc với các hiện tượng thơ đa dạng. Điều đó giúp
ta dần hình thành những nhận thức, quan niệm ngày một sâu sắc và rộng rãi hơn về thơ. Đương nhiên,
cùng với thơ là nhiều vấn đề khác nữa.
Cũng như
phần lớn bạn đọc, trước đây, tôi thích thơ lãng mạn, thuộc nằm lòng nhiều bài thơ viết theo thi pháp truyền
thống, nghĩa là truyền cảm trực tiếp và giàu tính nhạc. Việc tiếp xúc với nhiều
hiện tượng thơ mới, khó, buộc tôi dần phải thay đổi, mở rộng quan niệm thẩm mĩ và mĩ cảm cá nhân. Điều này
không phải không khó khăn. Trong quá trình đọc, tôi thường xuyên phải dừng lại
nghi ngờ, phản bác, chất vấn chính mình: Đây/ thế này mà là thơ ư? Liệu mình đã
đọc đúng chưa? Đâu là ranh giới giữa một
bên là đọc đúng và bên kia là sự suy
diễn tùy tiện? Đâu là căn cứ, giới hạn của việc đọc - diễn giải? v.v. Đọc thơ,
như vậy, đồng nghĩa với việc phải liên tục đối diện với những câu hỏi mang tính
phương pháp luận đầy hóc búa.
Theo
tôi, thơ (trong sự phân biệt với văn xuôi), phải đảm bảo những yếu tính thể
loại của nó, đó là tính xúc cảm, tính nhạc, và sự hàm súc, khêu gợi. Một bài thơ
hay, có giá trị, ngoài cấu trúc thẩm mĩ tự
thân, nó phải có khả năng gây ám ảnh, xúc động. Nhưng
bên cạnh tính thể loại, thơ còn có tính loại hình lịch sử. Trên thực tế tác phẩm,
cái gọi là yếu tính loại hình này cũng biểu hiện đậm nhạt khác nhau. Một khi có
sự tham gia của người đọc, tiêu chuẩn về thơ và tính thơ, như đã nói trên, càng
trở nên khác biệt, thậm chí đối lập gay gắt.
Bám sát vào văn bản, lấy văn bản làm căn cứ chính để lí giải, đánh giá, đó là một nguyên tắc đọc của tôi. Khi tiếp xúc với văn bản tác phẩm, tôi thường chú ý mấy điểm sau đây.
Về hình thức. Hình thức của thơ bắt đầu từ ngôn ngữ. Tôi đặc biệt chú ý đến cách tác giả sử dụng từ ngữ, hình ảnh, các biện pháp tu từ… Đồng thời, tôi quan tâm tới cấu trúc văn bản, bao gồm các yếu tố nội tại như câu - đoạn - bài - tứ thơ, đến cấu trúc chỉnh thể lớn hơn, bao gồm cả những yếu tố ngoài văn bản như tác giả, bối cảnh văn hóa, lịch sử... Chi phối những yếu tố kể trên là nhãn quan ngôn ngữ của tác giả. Không thể bỏ qua điều này khi phân tích, lí giải hình thức văn bản.
Về nghĩa/ ý
nghĩa. Như đã nói trên, nghĩa/ nội
dung không phải là yếu tố có sẵn, tồn tại ngoài văn bản, được áp cơ học vào văn
bản. Nó nằm trong văn bản, trong cấu trúc ngôn ngữ, hình tượng, ở dạng tiềm
năng và được phát hiện và làm phong phú thêm bởi
người đọc. Trong quá trình đọc, trên cơ sở phân tích các dấu hiệu hình thức, tôi
đồng thời cố gắng diễn giải lược đồ nghĩa/ ý nghĩa của nó. Cùng với việc đọc, sửa chữa, bổ sung, mở rộng…, lược đồ ấy sẽ
dần đầy đặn và thuyết phục hơn.
Bên cạnh những thao tác phân tích lí trí, tôi học cách tin vào trực giác và dùng trực giác để đến gần hơn với
tiếng nói của thơ. Đôi khi, một bài thơ bị xem là
“khó hiểu”, “khó đọc” với nhiều người vẫn có thể đánh thức trong tôi một cảm
xúc đặc biệt nào đó. Đó không phải là thứ cảm xúc trực tiếp, được giãi bày một
cách rành mạch, tạo nên sự đồng cảm ngay lập tức như thường thấy ở thi phẩm lãng
mạn, nhưng vẫn là cảm xúc thơ và không phải không
gây cảm động tương tự. Dĩ nhiên, điều này đòi hỏi mức độ cộng cảm khá sâu giữa
văn bản và người đọc. Sự kết nối, liên thông ấy nằm
trong “mã đọc” nhiều khi khá cá biệt và riêng tư.
Xuất phát
trên cơ sở văn bản, vận dụng linh hoạt nguyên tắc tiếp cận, lý giải theo hướng
thi pháp học, theo tôi, là cách đọc thơ khá hiệu quả. Tôi sẽ nói rõ hơn về một
số biện pháp, cách thức tiến hành cụ thể.
- Đọc
kỹ văn bản. Văn bản ngôn từ là trạm đọc đầu tiên và căn cứ quan
trọng nhất của quá trình đọc thơ. Đọc và cố gắng ghi nhớ những cảm giác, cảm xúc
trực tiếp, tức thì khi tiếp xúc với văn bản. Góp nhặt chúng lại, khái quát thành ấn tượng chung, chẳng hạn thích/ không
thích; hay/ dở; vui/ buồn/ buồn cười... Triển khai lý giải bằng cách đặt câu
hỏi, đặc biệt là loại câu hỏi vì sao. Đừng coi thường
trực giác. Nếu bạn đã có kinh nghiệm và tri thức đọc, ấn tượng trực giác
của bạn thường khá chính xác. Nó có thể giúp bạn nhanh
chóng định vị đối tượng mà không cần tới sự can thiệp sâu của các thao
tác phân tích lí trí.
- Phân
tích cách tổ chức văn bản. Khi đọc, tôi quan tâm đến tên bài thơ như một chỉ dẫn,
gợi ý. Thông thường, đó sẽ là chỉ dẫn về chủ đề hoặc hình tượng trung tâm. Nó kết
nối với toàn bộ cấu trúc văn bản ở phía sau, từ các yếu tố như lời đề từ, câu
chữ, hình ảnh, biểu tượng, khổ, đoạn, ý thơ, tứ thơ... Tôi đặc biệt chú ý tới
sự lặp lại của một số dấu hiệu hình thức. Chúng không ngẫu nhiên (trừ khi đó là
lỗi trong diễn đạt - lỗi lặp). Chúng có thể liên quan tới những vấn đề quan
trọng hơn, như chủ đề, cảm hứng, quan niệm… Đó là một dấu hiệu thẩm mĩ cần để
mắt. Hãy đặt các câu hỏi về chúng.
- Khai
thác các yếu tố bên ngoài, có mối liên quan với văn bản. Các
yếu tố ngoài văn bản khá đa dạng. Đó có thể là những thông tin về tác giả (tiểu
sử, sự nghiệp, quan niệm sáng tạo...) hoặc bối cảnh lịch sử - văn hóa, văn học
tương ứng. Bối cảnh này cung cấp căn cứ để ta hiểu sâu thêm về tác phẩm, định
vị chính xác hơn về giá trị của nó. Hoặc đó là các lý thuyết văn học, đóng
vai trò điểm tựa phương pháp luận, cung cấp, gợi ý, hỗ trợ hướng tiếp cận, lý giải
văn bản… Dĩ nhiên, chỉ nên sử dụng nếu ta thấy chúng có mối liên hệ với văn bản
và việc sử dụng các yếu tố này thực sự giúp ích cho việc đọc hiểu văn bản.
- Ghi
chép lại. Ghi chép là một cách để chính xác hóa những ấn tượng, nhận
thức nảy sinh trong quá trình đọc. Đồng thời, chính trong quá trình ghi chép, nhiều ý tưởng mới sẽ xuất hiện, khiến việc khám phá văn bản
trở nên hứng thú. Viết và đọc là hai hoạt động tương
tác, hỗ trợ lẫn nhau. Tôi tin việc thực hành đọc và viết thường xuyên sẽ giúp tăng
cường kiến thức, kĩ năng và hình thành phương pháp tư duy cần thiết.
Bây giờ, tôi
sẽ lấy một vài ví dụ trong thơ Việt Nam hiện đại để làm sáng tỏ một số điều ở trên. (Xin nói rõ, do
giới hạn bài viết, những minh chứng chưa đầy đủ và có khi tôi buộc phải “đẽo chân cho vừa giày”). Một bài thơ có
thể gây chú ý từ những yếu tố, phương diện nghệ thuật khác nhau. Một trong
những yếu tố đó là biểu tượng.
Ta hãy bắt
đầu bằng một bài thơ của Lê Đạt:
Bóng chữ
Chia xa rồi anh
mới thấy em
Như một thời
thơ thiếu nhỏ
Em về trắng
đầy cong khung nhớ
Mưa mấy mùa
Mây
mấy độ thu
Vườn thức
một mùi hoa đi vắng
Em vẫn đây mà
em ở đâu
Chiều Âu Lâu
Bóng
chữ động chân cầu
Hãy đặt mình
vào vị trí của người đọc. Sự tiếp xúc với bài thơ chắc chắn
sẽ làm nẩy sinh hàng loạt câu hỏi, chẳng hạn: Bóng chữ là
gì? Bóng chữ có liên quan gì đến chủ đề và hình tượng trong
bài thơ này? Tại sao “chia xa rồi anh mới thấy em”? Tại sao lại
là “như một - thời - thơ - thiếu - nhỏ” mà không phải là “thời
thơ ngây”, “thời thiếu nữ”, “thời thơ nhỏ”, những cách
diễn đạt có nội dung tương tự nhưng quen thuộc và rõ nghĩa hơn?... Rõ ràng đó là cách “làm chữ” có chủ ý của Lê Đạt. Một
mặt, tác giả tập trung vào hình tượng Em (đúng hơn là mối quan hệ anh - em)
và thu hút sự chú ý của độc giả vào motip chủ đề tình yêu đã mất. Motip này gợi
ra khá nhiều liên văn bản, chẳng hạn Đề tích sở kiến xứ của Thôi Hộ, Truyện Kiều của Nguyễn Du hoặc Cầu
Mirabeau của Guillaume Apollinaire. Mặt khác, sự lặp lại cố ý của của
cấu trúc hình ảnh “bóng chữ” (ở tên bài thơ và ở dòng kết thúc) đã bẻ lái
cách hiểu bài thơ theo hướng mới: câu chuyện về Chữ, về Bóng Chữ - “phần
tiền kiếp không được hóa giải của chữ… như cái bóng con thuyền Trương Chi thiếu
nợ hò khoan mãi trong lòng chén nước Mỵ Nương” [1].
Đó là câu chuyện tình yêu sáng tạo của Lê Đạt.
Biểu tượng được
xây dựng bởi nhiều chi tiết, yếu tố, hình ảnh trong tác phẩm. Nó có thể được
cấu trúc bằng thủ pháp lặp hoặc tương phản, đối lập, hoặc bằng sự tập trung của
các liên tưởng, so sánh... Nó có thể được báo trước trong tên của bài thơ, chẳng
hạn Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử), Áo trắng (Huy
Cận), Người về, Ngựa biển (Hoàng Hưng), Cõi lặng (Nguyễn
Khoa Điềm), Ánh trăng (Nguyễn Duy), Người đàn bà ngồi
đan (Ý Nhi), Sóng, Thuyền và Biển (Xuân Quỳnh), Tiếng
địch, Củi lửa (Dương Kiều Minh), Hạc trắng (Nguyễn
Lương Ngọc), Cây Ánh sáng (Nguyễn Quang Thiều)... Dĩ nhiên,
biểu tượng trong những loại hình thơ khác nhau có đặc điểm khác nhau. Biểu tượng
trong thơ tượng trưng thường trùng phức về nghĩa và khó
lý giải hơn.
Thơ gây chú
ý bởi những cách tổ chức ngôn từ và hình ảnh, nhất là khi viết theo lối siêu thực
và đương nhiên đây là một điểm sáng thẩm mĩ cần khai thác. Thông thường, trong
thơ siêu thực, giữa các câu chữ có sự đứt mạch rất rõ. Các hình ảnh thường hiện
lên như trong những ảo giác, những cơn mơ phi thực, lạ lùng. Đôi khi kỳ dị, dữ
dội, mê hoặc, khó có thể cắt nghĩa. Ví dụ:
- Gió
rít tầng cao trăng ngã ngửa
Vỡ tan thành
vũng đựng vàng khô
Ta nằm trong
vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy
điên cuồng mửa máu ra
(Say
trăng - Hàn Mặc Tử)
- tôi
buồn khóc như buồn nôn
ngoài
phố
nắng
thủy tinh
tôi
gọi tên tôi cho đỡ nhớ
thanh
tâm tuyền
buổi
chiều sao vỡ vào chuông giáo đường
(Phục sinh - Thanh
Tâm Tuyền)
- Những
tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo
choàng đỏ gắt
Li la li ta li
la
Đi lang
thang về miền đơn độc
Dưới vầng trăng
chuếnh choáng
Trên yên
ngựa mỏi mòn
(Đàn ghi ta của Loc- ca,
Thanh Thảo)
- Bây giờ
Em trụi trần dưới vòm cây tối đen
Ngực đồi trăng ướt đẫm
Tay chập chờn lửa sáng
Nhưng đã muộn rồi ôi muộn lắm
Vực sâu đã mở ra
Chôn cả lời trăng trối của mùa thu
Một chiếc lá khổng lồ đỏ thắm
(Bây
giờ - Lưu Quang Vũ)
- Khắp
nơi
những đôi mắt
dính trên cổ những người không có mặt
những tiếng kêu
phát ra từ miệng những người không có cổ
những bàn chân
càng bước càng lún sâu vào đất...
(Giấc
mơ của Kafka - Trương Đăng Dung)
Dĩ nhiên rất
cần chú ý đến chủ đề của tác phẩm. Đấy là một phương diện nghệ thuật quan trọng.
Đôi khi chủ đề được thể hiện ngay trong tên bài thơ, nhưng như thế chưa đủ. Cái
tên chỉ là một gợi ý, một chỉ dẫn ban đầu. Ta cần đọc sâu văn bản để tìm ra cái
chủ đề được cấu thành trong/ trên cấu trúc bài thơ. Ở ngoài cấu trúc văn bản,
mọi chủ đề đều như nhau, không có sự hơn kém về giá trị. Do đó, cần chú ý tới cách xử lý chủ đề trong từng tác phẩm. Nó gắn liền với
nhãn quan và bút pháp riêng của tác giả.
Ta hãy lấy
bài thơ của Pháp Hoan viết về một chủ đề có tính phổ quát - sự sống và cái chết,
để xem xét điều này rõ hơn.
Mùa xuân sau
một cái chết
Một bông hoa
đang nở ra trên cánh đồng
một bông
khác nở ra từ kẽ đá
một bông khác
trên ngọn đồi xa lạ
Trên nghĩa
trang lạnh giá
bông hoa đầu
tiên cũng đang hé nở
một bông
khác
và một bông
khác nữa
Và kìa sau
tấm lưng tôi hàng loạt bông hoa thi nhau nở rộ
chúng làm
tấm áo choàng của tôi nhanh chóng phồng lên
như cánh
buồm trước gió
Rồi từ cuống
họng tôi những bông hoa chui ra
những bông
hoa khác từ đôi mắt tôi
từ đầu những
ngón tay
từ đôi tai
từ lồng
ngực...
chúng đang
chiếm đoạt lấy thân thể tôi
chúng đang
làm tâm tư tôi trở nên bấn loạn
Bất chợt tôi
nhớ ra là mình đã qua đời vài năm trước đó
và tấm thân
bây giờ là mảnh đất màu mỡ cho đám hoa lá mùa xuân
Bài thơ được
triển khai từ điểm nhìn của kẻ đã chết, đã nằm dưới đất, nơi thân xác và đất đen
hòa làm một và đang nhìn ngắm/ mô tả về đời sống. Có thể khai thác vô số ý
nghĩa triết lý từ tứ thơ độc đáo này. Nhưng theo tôi, cái đáng quan tâm ở đây
không phải là những triết lý quen thuộc về sự sống - cái chết (là điều có thể
“đọc” ra ngay từ cái tên bài thơ) mà là sự xâm nhập, chuyển hóa giữa các yếu tố
đối lập ấy, và hơn thế, là cách mô tả của nhà thơ về quá trình ấy. Chọn điểm
nhìn quan sát từ bên trong, “tường thuật” lại các sự kiện, cảm giác cá nhân một
cách rành rẽ, chi tiết, nhà thơ cho thấy quá trình chuyển hóa của sự sống và
cái chết là một tất yếu, nó đến tự bên trong, tự nhiên và lặng lẽ đến đỗi khó
có thể nhận ra. Qua điểm nhìn và cách kể ấy, cảm giác những bông hoa chui ra
từ cuống họng, mắt, ngón tay, tai, lồng ngực... của kẻ đã chết, đã nằm
dưới mộ, đồng thời cũng là nhân vật trữ tình đang xưng “tôi”, đang kể
cho chúng ta nghe về những diễn biến cảm giác của anh ta, vốn là điều hết sức
phi lý (xét theo logic thông thường), đã trở thành điều hoàn toàn hợp lý, không
thể khác. Cái tôi nhận ra cảm giác sống ngay trong khi đang/ đã chết
(và rất có thể ngược lại). Đó là một cảm giác/ nhận thức siêu nghiệm nhưng không
thể sống động và thuyết phục hơn.
Chủ
đề cái chết trong bài thơ của Pháp Hoan làm tôi nhớ một kỷ niệm với bài thơ Nhẹ của
Nguyễn Bình Phương. Khi dạy sinh viên, tôi thường che tên
của bài thơ và yêu cầu họ đọc bài thơ, sau đó đoán thử
xem tên nó có thể là gì. Phần lớn các sinh viên của tôi đều nghĩ tới một cái
tên: Chết (hoặc Cái chết). Điều này có
lý do, đấy là do áp lực của cấu trúc lặp lại (từ “chết”)
và sự xuất hiện của các yếu tố ám chỉ cái
chết: ngôi sao đen, khu rừng ma, những con hươu ma, vĩnh biệt, ra đi... Tuy
vậy, sau đó tôi đã lưu ý họ về cái tiêu đề của bài thơ như một sự chỉ dẫn, nhắc
nhở ngầm của tác giả. Điều này giúp họ kết nối với nội dung ý nghĩa đã được
phát hiện trên bề mặt văn bản: bài thơ là một triết lý về cái chết theo kiểu Nguyễn
Bình Phương. Phải, chết rất Nhẹ.
Chết làm sao
ngôi sao đen
Nằm trên giường
bình nhiên bí ẩn
Chết không
thở cùng hoa
Thở cùng
người đàn bà xa lạ
Ở trong khu
rừng ma
Có những con
hươu ma
Chết nở một
nụ cười sáng nhẹ
Chẳng vĩnh
biệt em chẳng tiễn biệt ai
Từ tốn mơ
màng
Bông cải cúc
ra đi
Như vậy, khi
phân tích một bài thơ, ta cần phải chú ý đến phương diện kết cấu của nó. Đấy là
cách tổ chức toàn bộ các yếu tố, cấp độ, đơn vị của bài thơ thành một chỉnh thể
thống nhất. Trong thơ hiện đại, tồn tại phổ biến kiểu kết cấu mở (một thuật ngữ quy ước, nhằm phân biệt với kiểu kết cấu đóng, có tính tĩnh tại, khép kín trong thơ truyền thống). Kết cấu mở gắn liền với quan điểm hiện
đại về vai trò của ngôn ngữ và vô thức trong hoạt động sáng tạo. Với kiểu kết cấu
này, tính liên tục của dòng cảm xúc và mạch liên tưởng bị phá vỡ, biểu hiện của
cái tôi tác giả bị hạn chế, lời thơ nhiều khi trở nên tăm tối, khó hiểu. Tác giả
có thể đồng thời hòa vào bài thơ nhiều mạch cảm xúc, liên tưởng khác nhau, tạo
ra sự chồng lấn, trùng phức trong điểm nhìn, giọng điệu. Điều này rõ ràng gây khó
cho tiếp nhận của độc giả. Nhưng mặt khác, nó trao quyền chủ động tối đa cho người
đọc, cho phép họ tích cực tham gia vào hoạt động tạo nghĩa văn bản.
Bài thơ sau của
Mai Văn Phấn là một ví dụ.
Ghi ở Vạn Lý
Trường Thành
Mây xếp lên
vai từng tảng đá nặng
nhòe mắt cát
thở đầy ngực
cát
Vạn Lý Trường
Thành còn xây dở?
Trên không
tiếng hoạn quan truyền chỉ
Bắt được kẻ
nào vừa vác đá vừa làm thơ
đánh hộc máu
mồm
Khâm thử!
Ngước lên
gặp một khuôn mặt bì bì
tay lạnh,
mắt chì, giọng mỡ
Mái Phong hỏa
đài màu huyết dụ
hình thanh long
đao dính máu đang kề cổ
Còng lưng
đẩy nắng đi
Chồn chân
đẩy gió đi
Miễn sao được
gần bông hoa
đang mởn mơ
trong gió lớn
Tâu hoàng
thượng/ thưa ngài/ báo cáo đồng chí...
Bỉ chức/ thảo
dân/ em
sẽ làm trọn
bổn phận
Đây là đỉnh trời
hay đáy vực sâu
chỉ thấy trên
lưng lằn roi bỏng rát
Mồ hôi du
khách trên đá xám
nở thành hoa
phù dung.
Cắt dọc bài
thơ theo tuyến sự kiện, ta thấy có một hành trình hiện tại của du khách, hiển
thị trên bề mặt văn bản: mây xếp trên vai/ nhòe mắt cát/ thở/ ngước
lên/ mái Phong hỏa đài/ còng lưng/ chồn chân/ mồ hôi du khách trên đá xám. Song song với hành trình của du khách (trong hiện tại) là hành
trình của những dân công khốn khổ vác đá xây Vạn Lý Trường Thành (trong quá khứ).
Lớp nghĩa thứ hai xuất hiện ngay cạnh lớp nghĩa thứ nhất: từng tảng đá
nặng/ nhòe mắt cát/ thở đầy ngực cát/ Vạn Lý Trường Thành còn xây dở/ Tiếng
hoạn quan truyền chỉ/ đánh hộc máu mồm/ Khâm thử. Ta còn
có thể đọc ra lớp nghĩa thứ ba, khi xuất hiện đồng thời trên hành trình ấy chân
dung một con người khá đặc biệt: “vừa vác đá vừa làm thơ”, “còng lưng đẩy
nắng”, “còng lưng đẩy gió”, “miễn sao gần được bông hoa/ đang mởn mơ trong gió
lớn”. Ấy là chân dung của nghệ sĩ, kẻ yêu cái đẹp, vì cái đẹp mà có thể
bất chấp tất cả. Chân dung ấy gợi nhớ tới bao nhiều gương mặt thi nhân vĩ đại trong nền văn hóa Trung Hoa lâu đời. Đó là một liên hệ bất ngờ nhưng có lí. Nhờ vào cấu trúc song hành, nhiều chiều kích không gian/ thời
gian, quá khứ/ hiện tại… đan lồng vào nhau, kích hoạt những suy ngẫm đa chiều về
con người và lịch sử. Song cũng đúng lúc ấy, cắt ngang mọi ảo tưởng, là
sự đồng thanh, trùng điệp, nhẫn nhục của những giọng nói:
Tâu hoàng
thượng/ thưa ngài/ báo cáo đồng chí...
Bỉ chức/
thảo dân/ em
sẽ làm trọn
bổn phận
Trong khoảnh
khắc, dường như cửa ngõ tất cả các chiều kích không - thời gian đã chập lại và
mở thông sang nhau. Cùng lúc, ta thức tỉnh về sự lặp lại
bi đát, thê thảm của thân phận con người, đặc biệt là thân phận kẻ sĩ/ trí thức
trong suốt chiều dài lịch sử Trung Hoa, trong chế độ toàn
trị, với sức mạnh tàn bạo hiện hình ở chính biểu tượng Vạn Lý Trường Thành.
Một
số tác giả đặc biệt quan tâm tới kĩ thuật trình bày văn bản theo lối ngôn ngữ -
biểu hình. Thơ và họa kết hợp chặt chẽ trong những sáng tác này. Chẳng hạn, Jờ
Joạcx của Trần Dần, Đàn của
Dương Tường, Chữ cái của Từ Huy, Mặc xanh áo em của Trần
Nguyễn Anh, Những câu phức của Như Huy, Lô Lô của Ly Hoàng Ly...
Một số nhà thơ cố ý tạo nên những cấu trúc ngôn ngữ khác
thường, nhằm tạo nên nhạc tính kiểu mới (ví dụ Noel của Dương
Tường...); hoặc để gợi ra những cảm giác mơ hồ mộng mị (như Thơ vụt
hiện của Hoàng Hưng...). Sự khác biệt
trong hệ thống hình ảnh, biểu tượng cũng là điểm cần lưu ý. Chúng có thể cho thấy
những chuyển động, tìm tòi mới trong tư duy, quan niệm của tác giả. Chẳng hạn, hình ảnh đồ đạc trong thơ Phan Thị Vàng Anh; các
con vật chó, rắn, ốc sên, gián... trong thơ Nguyễn Quang Thiều, ruồi, rác thải,
đồ tái chế... trong thơ Vũ Thành Sơn, Phan Nhiên Hạo; cái bồn cầu trong thơ Nguyễn
Hữu Hồng Minh v.v. thực ra không phải được tả thực.
Chúng là phương tiện để nhà thơ thể hiện cái nhìn mới, mang tính dân chủ về đời
sống và thơ ca.
Khi tiếp cận
bài thơ, ta có thể tùy vào đặc điểm đối tượng cũng như mục đích, nguyên tắc và
sự nhạy cảm riêng của người đọc để chọn điểm/ góc tiếp cận. Không nhất thiết phải
trình bày tất cả (điều này vừa không cần thiết vừa không thể) về các phương
diện hình thức và ý nghĩa của bài thơ. Trên thực tế, cho dù bài thơ có được
đánh giá là “tuyệt tác” đi nữa, giá trị nghệ thuật của nó không bao giờ chia
đều cho tất cả các yếu tố.
Bên
cạnh việc tập trung vào một số điểm sáng nổi bật trong tác
phẩm, ta vẫn phải luôn chú ý tới nó như một chỉnh thể. Trước hết, đó là chỉnh
thể - bài, nhưng có khi rộng hơn, là chỉnh thể - tập; hoặc hơn thế nữa, chỉnh thể phong cách tác giả hoặc loại hình
thơ mà nó thuộc về. Chẳng hạn, khi đọc bài thơ Ghi ở Vạn Lý Trường Thành của
Mai Văn Phấn, tôi sẽ phải xem xét nó kỹ hơn trong tương quan với những tìm tòi
theo hướng hậu hiện đại trong tập Hôm sau. Cũng tương tự, để hiểu
sâu hơn về Bóng chữ, tôi sẽ phải đặt bài thơ này vào “trường thơ”
Lê Đạt, người tự nhận mình là “phu chữ” với quan niệm “chữ bầu lên nhà thơ” [2].
Điều đó giúp tôi hiểu Bóng chữ thực chất là một tuyên ngôn về
thơ, về sự sáng tạo.
Đọc thơ, cũng như tiếp nhận nghệ thuật nói chung, trên
thực tế, chưa bao giờ là việc dễ dàng. Nhất là khi ta đứng trước những văn bản viết
theo lối khác với truyền thống, bị xem là tối tăm, hũ nút hoặc tầm phào, vô nghĩa,
thường bị gộp chung vào trào lưu “chủ nghĩa hiện
đại”, và gần đây là “hậu hiện đại”. Sự thực thì
thơ hậu hiện đại, cũng như thơ hiện đại và các loại hình thơ trước đó, đều có nguyên
tắc, thủ pháp sáng tạo riêng, ưu điểm và nhược điểm riêng. Dẫu sử dụng những kỹ
thuật viết giống nhau, có tác giả viết được những tác phẩm giá trị, có tác giả
chỉ dừng lại ở những thử nghiệm thất bại. Khi đọc Chuyện 40 năm mới kể và 18 bài thơ tân
hình thức của Inrasara, tôi phải tìm đọc lí
thuyết hậu hiện đại để hiểu thêm về tư tưởng phá
hủy đại tự sự, góc nhìn ngoại biên và đặc thù của lối
viết hậu hiện đại. Những tri thức này gợi ý hướng
tiếp cận và giúp tôi nhận ra cái hay trong
những sáng tác như Yêu nhau ba thì. Bài thơ, thực chất, là sự giễu nhại những đại tự sự như tình yêu, thơ ca, nghệ thuật... Trong
nhãn quan hậu hiện đại, tác giả ý thức hơn bao giờ hết về sự sao chép, lặp lại,
điều không chỉ có trong tình yêu, đời sống hiện thực, mà cả trong sáng tạo, lĩnh
vực luôn đứng trước đòi hỏi phải làm mới. Ý
thức ấy buộc anh ta phải viết theo cách khác,
thực tế, tỉnh táo và hài hước:
Như là bản
sao
chán quá đi
mất, em nói
hay mình lao
bừa vào nhau đi anh
Hay ta chia
tay đi em
lại là thứ
chia li không miếng nào đặc sắc
na ná trong
phim, xa hơn: truyện cổ tích
& thì
đành yêu tạm
thôi, mình nhỉ!
Tri
thức thể loại và loại hình cũng giúp tôi tiếp cận và nhận ra điểm khác biệt trong
lối viết của một số tác giả như Lê Vĩnh Tài, Phan Nhiên Hạo, Khế Iêm, Đặng Thân,
Như Huy, Nguyễn Thế Hoàng Linh… Không chỉ khác về
mặt kĩ thuật, họ còn khá khác biệt trong tư duy và cảm
thức viết. Khác chưa hẳn đã hay, song trong sáng tạo, khác là
một giá trị đáng chú ý. Tóm lại, ta chỉ có thể đánh giá chính xác về đóng
góp, giá trị của các hiện tượng thơ (rộng ra là các hiện tượng nghệ thuật) khi
xem xét, lí giải chúng trong hệ hình mĩ học của chúng.
Trên đây là một vài đúc kết về cách đọc thơ của tôi. Chúng nghiêng về kinh nghiệm cá nhân và đôi khi sa vào lược quy phương pháp đơn giản. Nhưng điều này là cần thiết đối với tôi, nó giúp tôi ý thức rõ hơn về việc đọc của chính mình. Đây cũng chỉ là một trong vô số những cách đọc (hết sức khác nhau) và sự đa dạng này là điều quá hiển nhiên trong tiếp nhận nghệ thuật. Theo một quan niệm mĩ học hiện đại đã trở nên quen thuộc, sự phong phú, đa dạng của cách đọc tạo nên sự phong phú về nghĩa/ ý nghĩa của văn bản, đưa văn bản trở thành tác phẩm. Sự khác biệt, đa dạng của cách đọc của độc giả, đặt trong mối quan hệ với sự viết/ cách viết của nhà văn, chắc chắn cũng tạo nên sự tương tác, thúc đẩy tích cực, buộc người viết phải ý thức hơn trên hành trình tìm kiếm những giá trị sáng tạo mới. Và tôi nghĩ, đó chính là điểm cốt lõi tạo nên ý nghĩa, giá trị của tư duy đọc hiện đại.
Đọc thơ là
một vấn đề khó nhưng thú vị. Đọc cách đọc thơ cũng thú vị không
kém: nó cho ta thấy nhiều kiểu tư duy khác lạ, độc đáo. Tôi học được rất nhiều
từ những cách đọc khác đó. Tóm lại, đọc là một quá trình tìm
tòi, học hỏi, đối thoại và tìm cách đối thoại với văn bản, với người viết, với những
quan niệm khác mình. Đọc cũng dạy tôi đến gần hơn với sự dân chủ và biết tôn
trọng những giá trị Khác.
Vinh, 2/1/2019
Quang ạ! Người như Quang nên có đại gia chống lưng. Để không phải làm gì, chỉ đọc và viết. Không thì phí quá!
Trả lờiXóa