THƠ TÌNH VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Lê Hồ Quang
1. Sự gặp gỡ với văn hoá phương Tây, đặc biệt là văn hoá Pháp, giai đoạn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã tạo nên một cơn địa chấn dữ dội lay động tận gốc ý thức hệ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm trong lòng xã hội Việt Nam cổ truyền. Con người, từ chỗ luôn xem mình là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời của mô hình vũ trụ Thiên - Địa - Nhân, giờ đây, trong một tư duy phân tích tỉnh táo đậm chất phương Tây, rất tự nhiên, nhận thấy có một sự đối lập đầy lí tính giữa cá nhân và thế giới. Điều này, một mặt giúp anh ta phát hiện ra chính mình trong những giá trị riêng biệt, độc đáo: Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất (Xuân Diệu). Song tách rời khỏi cộng đồng, tự xác định mình trong tư cách là cá nhân, đồng nghĩa với việc con người phải tự chịu trách nhiệm về những hành vi và lựa chọn của mình, trong khi không bao giờ có thể chắc chắn về kết quả của sự lựa chọn đó. Do vậy, tự do cá nhân cũng đồng thời thức tỉnh nỗi âu lo về một sự hiện hữu ngắn ngủi và vô vọng, luôn đồng nghĩa với sự bất trắc và nỗi cô đơn thường trực. Tấn bi kịch tinh thần của thời đại này phản chiếu rõ trong sáng tác của Vũ Hoàng Chương, qua chân dung của một cái tôi đam mê mà khinh bạc, say đắm mà chán chường. Đó là một cái tôi ý thức sâu sắc về một thế giới thực tại bị chia cắt, và con người sống trong những giới hạn ngăn cách, vĩnh viễn đánh mất khả năng chia sẻ, hoà hợp trọn vẹn. Thực chất, thế giới nghệ thuật bị phân cực này chính là phóng chiếu của một nội tâm đầy bất ổn, là sự giằng xé của cái tôi thi sĩ giữa một bên là khát vọng truy tìm cái đẹp lí tưởng và một bên là thực tại đời sống dung tục, tầm thường, giữa khát vọng hoà hợp tuyệt đối và thực tế hiện hữu cô độc, bị chia cắt.
Vũ Hoàng Chương đã nỗ lực tìm
kiếm trong thơ những phương tiện nghệ thuật để hóa giải nỗi ám ảnh li cách ấy.
Cũng giống như Ch. Baudelaire, khi viết: “Lúc nào cũng
cần say. Tất cả là ở đấy: đó là vấn đề duy nhất. Say triền miên để khỏi cảm
thấy gánh nặng khủng khiếp của Thời gian đè gẫy vai anh, vít anh xuống đất.
Nhưng say gì vậy? Rượu, Thơ hay Đức Hạnh, tuỳ thích. Nhưng hãy say đi” (Say đi anh), Say cũng là một
lựa chọn đầy ý thức của Vũ Hoàng Chương. Không phải ngẫu nhiên mà từ “say” xuất
hiện với một tần số cao như vậy trong thơ ông: 61 lần xuất hiện trên 57 bài
khảo sát [1]. Đi cùng với trạng từ này là trường từ ngữ chỉ các trạng thái, cảm
giác say như lảo đảo, quay
cuồng, say
sưa, đê mê, chuếch choáng, rã rời... Vũ Hoàng
Chương còn đặt tên cho cả tập thơ của mình là Thơ say với sự xuất hiện mang dụng ý lộ
liễu của từ say trong các tiểu mục của tập thơ: Say, Lại
say... Với tác giả
này, say chính là
một phương tiện để ông hoá giải nỗi cô đơn thực tại, hòng đạt đến trạng thái
hoà hợp tuyệt đối, lí tưởng. Chính vì vậy, ông tìm kiếm trạng thái say dưới mọi
hình thức: rượu, thuốc phiện, nhảy đầm, ái tình, thi ca... Từ góc nhìn này, có
thể nói, ái tình là một “nẻo say” đặc biệt
để “người say muôn thuở ghé qua chơi”. Nếu rượu, thuốc phiện là chất kích thích
của những cơn say sinh lí, thì tác nhân kích thích của cơn say tâm lí này này
là Em - nàng thơ, người tình. Mọi cảm giác, cảm xúc của chủ thể đều khởi nguồn
từ Em. Dù là một cô gái giữa đời thực hay là những bóng ma huyền hồ khói sương,
Em luôn có khả năng gây ra những trạng thái say đặc biệt. Đó là những cảm giác
nhục thể: say, đê mê, ngây ngất, mê man, bỡ ngỡ, da thịt cháy... Đó là những run rẩy tâm linh:
Bừng thức tiền thân choàng cảm giác, Giác quan vụt cháy niềm run rẩy, Trầm luân
hồn tỉnh giữa chiêm bao... Là những
chập chờn ảo giác: Trăng bạn, hoa em trầm mối lái/ Đèn khuya dìu dặt bóng
yêu ma; Rún rẩy hoa đèn rung ngọn bấc/ Không gian đàn mãi tiếng giày ai; Trang
sách chập chùng run lửa nến/ Hài thêu nâng gọi ngắn không gian v.v. Cũng như những trạng thái say
khác, say tình nhiều khi
đẩy con người vào những cảm xúc, hành động dường như không thể kiểm soát. Với
thi nhân họ Vũ, đó hẳn là một cơn say dài, đầy những mộng mị mê hoảng rã rời: Là
thế!Là thôi! Là thế đó!/ Mười năm thôi thế mộng tan tành!; Men khói đêm nay sầu
dựng mộ/ Bia đề tháng sáu ghi mười hai/ Tình ta, ta tiếc! cuồng, ta khóc./ Tố
của Hoàng nay Tố của ai?; Em ơi! Lửa tắt bình khô rượu/ Đời vắng em rồi say với
ai?... Nhưng trạng
thái say tình cũng có thể
đem lại cảm giác Quên lãng triệt để, như là một trạng thái ngơi
nghỉ mà thi nhân
hằng tìm kiếm: Hãy buông lại gần đây làn tóc rối/ Sát gần đây, gần nữa,
cặp môi điên/ Rồi em sẽ dìu anh trên cánh khói/ Đưa hồn say về tận cuối trời
Quên...
Với Vũ Hoàng Chương, say tình dường như là một trạng thái hiện
hữu phổ biến của con người. Và có lẽ không ở đâu mà khát vọng truy tìm cái đẹp
lí tưởng “toàn
hương và tận mỹ” của thi sĩ
lại thể hiện đặc biệt ráo riết như trong địa hạt tình cảm này. Một mặt, ông
thường xuyên ý thức về tình trạng “cánh vĩ đại vướng trong lồng
thực tế”; song mặt
khác, “mộng yêu đương ấp ủ quá siêu trần” mới là cái đích ông tìm kiếm, đòi hỏi. Như
vậy, trong “tình vô biên giành chứa một giai nhân” ấy, hẳn không chỉ là để nói về
một cô gái cụ thể nào, cho dù nói về đời thơ ông, người ta vẫn thường nhắc
đến những cô gái với những đặc điểm danh
tính khá chi tiết, xác thực. Không phải ngẫu nhiên mà trong Lí
tưởng, một bài
thơ có thể xem như một tuyên ngôn sống, tuyên ngôn nghệ thuật của tác giả, ông
thường nhắc đến các cụm từ: “ý huy hoàng”, “toàn hương và tận mỹ”, “tình vô
biên”, “siêu trần”, “ý cao siêu”, “suối mơ”, “nguồn tuyệt đối”... Đó là khát vọng hướng tới một
cái đẹp cao siêu, tuyệt mỹ, vượt lên trên “lồng thực tế”, thoát ra ngoài “bến
tục”. Điều này cũng có nghĩa là với Vũ Hoàng Chương, tình yêu cá nhân sẽ phải
mang một ý nghĩa và sứ mệnh mới. Đó sẽ là những thể nghiệm của ông trên hành
trình khám phá, truy tìm cái đẹp Lí tưởng, cũng là sự
hoà hợp, “cảm thông” tuyệt đối.
Trạng thái say tình, dưới mắt
Vũ Hoàng Chương, mang vẻ đẹp của một thứ
tình cảm tự nhiên của con người, đồng thời thấm đẫm chất thi vị triết
học.
2. Cảm quan này chi phối khá
rõ tới cách xây dựng thế giới hình tượng trong thơ tình Vũ Hoàng Chương. Thế
giới ấy được tác giả mô hình hoá như một cuộc kiếm tìm không ngừng nghỉ của cái
tôi thi nhân với Tình yêu, cũng là với Cái đẹp lí tưởng. Vậy phải chăng cùng
với việc đắm mình trong trạng thái say tình, người nghệ sĩ sẽ đạt đến trạng
thái hoà hợp tinh thần tuyệt đối mà ông hằng
khao khát? Xem ra đó cũng chỉ là một ảo tưởng. Ảo tưởng ấy được đánh dấu bằng
hai lần thất bại. Nhà thơ đã thể nghiệm sức mạnh tình yêu qua hai hình thức
khác nhau: đời thực và mơ mộng (dĩ nhiên, chúng ta đang nói đến ý niệm thực và mộng qua “mắt thơ” Vũ Hoàng Chương).
Nhưng trong bất kì thể nghiệm nào, tình yêu cũng chỉ cho con người thấy rõ hơn
những giới hạn không thể vượt qua của chính nó. Tuy nhiên, Vũ Hoàng Chương
không ham đưa ra những triết lí tản mạn, vụn vặt. Ông thiên về cách diễn tả
tình yêu như một quá trình tìm kiếm, trải nghiệm của cá nhân trong đời sống. Từ
đây, chân dung cái tôi Vũ Hoàng Chương càng nổi bật lên trong những đường nét
độc đáo, riêng biệt.
Thất bại thứ nhất: tình yêu trong
đời thực. Tình yêu
trong đời thực là thứ tình cảm tự nhiên nẩy nở giữa hai con người khác giới, và
theo cách diễn tả của Vũ Hoàng Chương, không phải không đem lại cho con người
những giây phút hoan lạc ngọt ngào: Mến thương không ngỏ chàng như
thiếp/ Hồn khoá then trinh lặng nhớ thầm; Em đã nao lòng anh mê man/ Đuôi mắt
đầu môi tình chứa chan; Yêu mà còn nghi lòng người yêu/ Đến cả chưa tin mình
đang yêu/ Hương tình - ôi, dịu nhẹ bao nhiêu! v.v. Tuy nhiên, kết cục của tình yêu cõi thế
thường chỉ là một trong hai khả năng và khả năng nào cũng chỉ đem lại những đổ
vỡ, thất vọng. Khả năng thứ nhất là tan vỡ: Mong manh
tình đã rụng rời/ Tơ vương còn thắt tim người chia ly. Nguyên nhân, theo quan niệm của Vũ Hoàng
Chương, chủ yếu là do sự “lệch pha” giữa
hai tâm hồn. Lúc thì do anh vô tình, khi thì bởi em dửng dưng; lúc thì đó chỉ
là mối duyên bèo bọt của “trai lỡ phong vân gái lỡ tình”; hoặc cũng có khi cái cơ hội hàn gắn những
tâm hồn đã qua, đã lỡ, đã “chậm quá rồi”... Bởi vậy, tình yêu trong thơ ông thường được mô hình hoá theo kiểu một
trò đuổi bắt oái ăm. Lúc bên này nồng thắm thì bên kia lại dửng dưng, lạnh lẽo.
Điều này khiến những đôi tình nhân, ngay cả khi trong trạng thái riết
đôi tay, ngả đôi thân, vẫn không
thể nào hoá giải được “thành sầu” sừng sững trong lòng mình. Thiếu đi một sợi
dây đồng điệu, mất đi cái cơ hội cảm thông, con người mãi mãi bị chia cắt trong
sự vô tình, vô cảm của chính mình. Được mô tả như một trạng thái nhân thế phổ
biến, sự lệch kênh tinh thần là nguyên nhân cơ bản khiến tan vỡ trở
thành một kết cục có tính quy luật trong tình yêu. Thay vì sự gắn bó, hoà hợp
như khát vọng thi sĩ, tình yêu, rốt cục, chỉ đem lại sự chia lìa, đau đớn: Hôm
qua tình đã chết/ Anh đã chôn nó rồi/ Anh khóc vì chôn nó/ Là chôn cả một
đời!...
Khả năng thứ hai của tình yêu
trần thế, một kết cục cũng thường gặp trong đời thực, là sự gắn bó thân xác.
Văn hoá phương Đông và phương Tây đều có những quan niệm khá gần gũi về ý nghĩa
tượng trưng của hành vi tính giao trong đời sống con người. Nó được coi như sự
lặp lại của cuộc giao phối đầu tiên giữa Trời và Đất, từ đó muôn loài được sinh
ra. Nó mang một sức mạnh hợp nhất và liên kết phổ quát giữa cái tiểu ngã và đại
ngã, giữa bản thể cá nhân và bản thể vũ trụ. Với Vũ Hoàng Chương, vấn đề “thân
xác” trong tình yêu được nhìn nhận như thế nào? Hãy chú ý những bài như Tối
tân hôn, Động phòng hoa chúc, Bức khăn mừng cưới... Hai bài đầu là tâm trạng của một tân
lang, còn bài
sau là tâm trạng của một tân nương trước một
sự kiện lớn của đời mình. Tâm trạng của vị tân lang trong tối tân hôn, quả thực
nói như một nhà nghiên cứu, là tâm trạng đầy hối tiếc, do dự của một người tiên
bị biếm trần. Đêm tân hôn được tường thuật bởi một kẻ trong cuộc, nhưng cách
tường thuật lại là của kẻ ngoài cuộc: nó thiếu đắm đuối đam mê mà quá thừa xác
thực tỉnh táo! Cho nên, “Cái đêm hôm ấy đêm gì/ Bóng trăng lẫn bóng trà mi trập
trùng” đầy mê đắm
trong Cung oán ngâm khúc, thực ra theo Vũ Hoàng Chương chỉ là lìa
cõi Mộng giong thuyền qua bến Tục, là từ
cung trăng rơi ngã xuống trần gian, là uống
bùn nhơ, là chôn nốt
chút thơ ngây còn lại... Sự gắn
bó thân xác không thể khoả lấp sự cách biệt về tâm hồn, ngược lại, nó còn tầm
thường hoá, dung tục hoá tình yêu. Tệ hơn, nó giết chết ảo tưởng về một tình
yêu toàn hương và tận mỹ. Cái mà nhà thơ lãng mạn này khao khát là
một sự hoà hợp, cảm thông tuyệt đối thì cái mà ông có được trong tình yêu nhục
thể, trong thân xác giai nhân chỉ là nồng cháy những men trần. Sau những phút điên
say, thi nhân
luôn mang tâm trạng của kẻ trót ăn trái cấm và vĩnh viễn đánh mất thiên đường.
Sau những thoáng lát “rạo rực” thân xác là cảm giác rã rời cay đắng, là sự
“đoan chắc” bi đát, chán chường:
- Thôi hết nhé! Thoả đi niềm rạo rực!
Từ cung trăng rơi ngã xuống trần gian
Ta sắp uống bùn nhơ và sự thực
Sẽ mai đây giầy xéo giấc mơ tàn
- Hai xác thịt lẫn vào nhau mê mải
Chút thơ ngây còn lại cũng vừa chôn
Khi tỉnh dậy, bùn nhơ nơi hạ giới
Đã dâng lên ngập quá nửa linh hồn...
Người ta nói nhiều đến tâm
trạng của vị “tân lang” trong hai bài thơ trước và cũng thường đồng nhất với
tâm sự chán chường của chính Vũ Hoàng Chương. Theo tôi, cũng cần chú ý thêm tâm
trạng của vị “tân nương” trong bài thơ sau. Khi thác lời người thiếu nữ trước
khi về với nhà chồng nói với cố nhân, có thể nhà thơ chỉ muốn giãi bày hộ tấm
lòng của một ai đó, an ủi, vỗ về một ai đó nữa. Nhưng cũng từ những trạng huống
cụ thể này, người đọc bỗng nhận ra rằng sự chênh lệch, phi đối xứng trong tình
cảm lứa đôi dường như là một tình trạng nhân thế phổ biến. Chọn mô tả những giờ
phút hoan lạc sung sướng nhất của đời người, cũng là thời điểm dễ hoà hợp nhất
giữa linh hồn và xác
thịt (theo cách
nghĩ thông thường), chính là một cách để nhà thơ diễn tả sâu sắc hơn bao giờ
hết tình trạng bơ vơ, cô độc, không thể chia sẻ đầy bi đát của con người. Tình
yêu cũng như tình dục, đã không thể hoá giải những cách ngăn tinh thần mà chính
con người đã tự dựng nên cho mình trong cuộc sống. Hình tượng tân
nương, thực chất,
cũng chính là một hoá thân của cái tôi tác giả.
Trong thơ Huy Cận, người đọc
cũng từng bắt gặp một quan niệm về tâm hồn và thân xác tương tự:
Từng bước lạnh teo một mình lủi thủi/ Tin ngây thơ: hồn sẽ hiểu qua hồn/ Tôi
đâu biết thịt xương là sông núi/ Chia biệt người ra từng xứ cô đơn (Trình
bày)... Nhưng nếu
Huy Cận chỉ dừng lại ở việc “nêu vấn đề” thì Vũ Hoàng Chương luôn có xu hướng
đẩy tới cùng bản chất của vấn đề ấy. Do vậy, nếu sự phân biệt xác thân - linh
hồn trong thơ Huy Cận chỉ nhằm hướng đến ca tụng một tình yêu tinh thần “thuần
khiết” kiểu “áo trắng đơn sơ mộng trắng trong”, thì trong thơ Vũ Hoàng Chương, một mặt, sự
phân biệt này cũng là biểu hiện của xu hướng “thánh hoá” tình yêu tương tự,
song đồng thời, nó còn thể hiện nỗ lực ráo riết nhằm kiếm tìm một tình yêu đích
thực, một tình yêu có sự hoà hợp của cả thân xác lẫn tâm hồn, đem lại sự hợp
nhất không chỉ giữa hai cá thể dị biệt, mà còn đem lại sự hợp nhất giữa con
người và thế giới. Nghịch lí mà nhà thơ này không thể vượt qua nằm ở chỗ: một
mặt, bằng vốn tri thức văn hoá, bằng những trải nghiệm cá nhân, ông thừa nhận
tình dục như bộ mặt vật chất của tình yêu, rằng không thể tách rời tình dục với
tình yêu, nhưng mặt khác lại ghê sợ khía cạnh bản năng sinh lí và chỉ muốn nhìn
nhận nó trong những ý nghĩa tượng trưng cao cả, siêu thoát. Không phải ngẫu
nhiên mà thơ Vũ Hoàng Chương thường nói đến những vẻ đẹp thân xác, những cảm
giác nhục thể nhưng không phải với một cảm xúc thụ hưởng đầy hăm hở, đắm đuối
như thường thấy trong thơ Xuân Diệu hay một số nhà Thơ mới khác. Độc giả chẳng
khó khăn gì để nhận ra thái độ chán chường ghê sợ của tác giả đối với những mối
tình thân xác. Nguyên nhân chính nằm ở cái quan niệm lãng mạn ít nhiều cực đoan
của người nghệ sĩ về một thế giới (trong đó có tình yêu cá nhân) trọn vẹn,
tuyệt đối như đã nói tới ở trên. Tuy nhiên, ngay từ thể nghiệm đầu tiên, Vũ
Hoàng Chương đã thất bại: tình yêu cá nhân đã không thể có được sức mạnh cần
thiết như trong tham vọng của ông. Với một đầu óc duy lí, thậm chí hai lần duy
lí (ý của Đỗ Lai Thuý), thay vì sự hợp nhất tuyệt đối như mong muốn, ông chỉ
luôn nhận thấy sự ly cách, phân rã trong cuộc đời lẫn tình yêu. Bởi vậy, nếu
triết lí tình yêu của Huy Cận bộc lộ một tâm thế tương đối bình tĩnh, ôn hoà,
thì triết lí tình yêu của Vũ Hoàng Chương chất chứa một tâm sự cay chua, chán
chường, bi đát. Nói tóm lại, với Vũ Hoàng Chương, ở cả hai chiều hướng kết cục
có thể diễn ra, tình yêu trần thế chỉ càng bộc lộ rõ hơn sự bất lực đáng thương
của nó.
Thất bại thứ hai: tình yêu trong mộng. Thất bại trong đời, Vũ Hoàng Chương, giống
như nhiều nhà thơ lãng mạn khác, đã tìm đến với cõi mộng. Giấc mộng này đặc
biệt ở chỗ, thi sĩ dường như chỉ muốn tìm về hội ngộ với những... bóng ma
(những bóng ma người đẹp, dĩ nhiên!). Trong một sáng tác của mình, Xuân Diệu
cũng từng “mơ xưa” với Bao Tự mặt sầu bi, Ly Cơ hình nhịp nhàng, nàng Lộng Ngọc
lấy Tiêu Lang... Thậm chí,
trước nỗi ám ảnh của Hư vô, ông còn hùng hồn tuyên bố: Người chết
rồi không cần đủ thịt da/ Khi chết rồi thì ta sẽ yêu ma. Tuy nhiên, đấy chỉ là một cách nói. Xuân
Diệu rõ ràng chỉ đam mê cái thế giới trần gian huy hoàng đầy thanh sắc mà thôi.
Còn với Vũ Hoàng Chương, tình yêu trong những giấc mơ xưa, với những bóng ma
người đẹp, trước hết là một phương tiện để thoát khỏi những tình
yêu đầy vật chất/ Mê man giả dối xót thương vờ của hiện tại. Sau nữa, đó chính là một tiếp
tục thể nghiệm của thi nhân trên hành trình tìm kiếm tình yêu lí tưởng, cái đẹp
siêu trần.
Với thi nhân, tình yêu lí
tưởng ấy chính là sự cảm thông sâu xa giữa con người và con người, con người và
thế giới. Nó tạo nên “niềm khăng khít” giữa
Quỷ với Người, xoá đi sự cách trở âm dương giữa kẻ sống và người chết,
đánh thức khao khát yêu đương ân ái trong lòng cây cỏ, gỗ đá vô tri... Chính
tình yêu sẽ là “khúc nhạc sống” làm xao xuyến muôn loài, tạo nên “vạn dịp cầu
tơ chắp ý duyên”. Đó không chỉ là sự hoà điệu, cảm thông về mặt tinh thần, mà
còn là sự gắn bó, ràng rịt cả bằng thân xác. Đó là những mối tình Liêu Trai
kiểu “quỷ với người chung một mái nhà” giữa một khung cảnh “trăng bạn,
hoa em, trầm mối lái/ Đèn khuya dìu dặt bóng yêu ma”... Rất nhiều hình bóng người đẹp thủa xưa
được “chiêu hồn” về trong những trang thơ của ông, chẳng hạn, gái
Giang Nam, gái Tầm Dương, gái Liêu Trai, gái xưa Kim Lăng, công chúa, Thôi Oanh
Oanh v.v. Thi nhân,
thân xác sống trong hiện tại mà linh hồn dường như đã gửi tại cõi xa xăm nào.
Ông luôn nhìn thấy mình trong hình bóng của những “tiền thân”, “kiếp xưa”,
“kiếp nào”, bậc Trích tiên, chàng Giang Châu Tư Mã, kẻ Đào Nguyên lạc lối...
Trong thơ, ông luôn soạn sẵn một tâm thế “mở ngỏ” để đón đợi sự thông linh từ
thế giới khác. Đó là con người thường trong tư thế nằm (Gối chiếc
nằm nghe sầu bốn mặt; Rượu ngấm, say nằm dưới gốc mai; Nằm hấng mưa rơi độc vận
bằng...); trong trạng
thái cô đơn (Cô
đơn men đắng sầu trăng bến; Buồng vắng ơ hờ chăn chiếu đơn;...); say (Chén đã vơi
mà ngập gió sương/ Men càng ngây ngất ý Tầm Dương; Ta lặng buông thân trời lảo
đảo/ Mơ hồ sông nước choáng men say); trong cảm giác phấp phỏng chờ đợi những điều lạ lùng, linh diệu (Ta
nhớ tiền thân phòng lại ngỏ/ Giấc hồ thơm tóc gái Liêu Trai; Tương tư, đốt đuốc
thâu canh đợi/ Thoảng gió, trà mi động mấy bông...); trong những giấc chiêm bao chập chờn (Tuyết
phủ chiêm bao mộng chập chờn; Trầm luân hồn tỉnh giữa chiêm bao; Chiêm bao giợn
tuyết gối ngờ băng...); giữa một
không gian, thời gian đặc biệt, ở đó, mọi ranh giới dường như đều bị nhoè lẫn: “sương
lam mờ tỏ”, “rợp bóng mây”, “mưa lất phất”, “khói sương tha thiết”, sương rợp”,
“sương lạnh”, “bóng trăng”... Và đó là cơ
hội cho những ảo giác và ảo ảnh xuất hiện: Nao nao khói
biếc hài thương nữ/ Trở gối hoa lê rụng trắng thềm v.v.
Rõ ràng, Vũ Hoàng Chương đã
rất dụng tâm khi lựa chọn sử dụng những “vật liệu”, “chất liệu” thi ca để cố
gắng xoá đi những đường biên giới hạn giữa Mơ và Thực, giữa Âm và Dương, giữa
Xưa và Nay. Thực chất đấy cũng là nỗ lực để xoá đi sự ly cách giữa Thi nhân và
Người đẹp, hòng đạt đến sự “cảm thông” sâu xa giữa con người và con người mà
ông hằng khao khát. Tuy nhiên, những nỗ lực xoá đi ngăn cách chỉ càng làm cho
thi nhân nhận thức sâu sắc hơn về sự hiện hữu của những khoảng cách. Đắm mình
trong “mơ xưa”, càng làm cho ông ý thức rõ hơn về thực tại.Việc thi nhân không
ngừng mơ về một tình yêu sâu nặng thuở trăng mới cuồng si nụ bán khai, thật ra chỉ càng chứng tỏ rằng
thuở ấy đã thực sự qua rồi. “Mơ xưa”
kì thực chỉ là một giấc mơ nhân tạo. Điều này càng chứng tỏ nhà thơ đã không
dám đối mặt với sự cô độc và ly cách như là bản chất của sự hiện hữu con người
mà ông đã tiên lượng bằng sự tỉnh táo ráo riết của mình. Rốt cục, thể nghiệm
lần thứ hai cũng lại là một thất bại:
Hỡi ơi! dâu bể mòn thương nhớ
Gỗ đá còn trơ gỗ đá thôi!
Lớp lớp biên cương tình chật hẹp,
Mùa xưa thông cảm đã qua rồi!
(Cảm thông)
Việc dùng tình yêu cá nhân như
một phương tiện để đạt đến trạng thái hợp nhất “tuyệt đối” giữa thi nhân và thế
giới, cuối cùng chỉ là một ảo tưởng chua chát. Nỗ lực tìm kiếm trong tình yêu
lứa đôi một cái đẹp “lí tưởng”, “siêu trần”, vượt trên cõi đời dung tục cũng
chỉ đem lại cho thi nhân những thất vọng, bẽ bàng. Cả tình yêu, tình dục đều
không thể giải thoát con người khỏi những bi kịch. (Thật ra, khi cứ “soát xét”
tình yêu, nhất là tình yêu của đời thực, bằng một con mắt lí trí tàn nhẫn và
ráo riết như Vũ Hoàng Chương, thì thất vọng cũng là một tất yếu!) Điều cần nói
thêm là, xuất phát từ một quan niệm (cũng là một đòi hỏi cực đoan và đầy lãng
mạn) về tình yêu như vậy, nên với Vũ Hoàng Chương, thất bại trong tình yêu cũng
đồng nghĩa với thất bại trong cuộc đời. Việc nhà thơ không thể tìm thấy sự cảm
thông giữa ông với người tình đồng nghĩa với việc ông không thể nào tìm thấy sự
hoà hợp với cộng đồng, với nhân thế. Cảm giác xa lạ, lạc loài bắt nguồn từ đó.
Cảm giác thảng thốt chán chường cũng khởi dậy từ đó. Chính vì vậy, thi nhân
nhiều lần nói đến đời mình trong một mặc cảm thất bại sâu xa: Ôi!
ta đã làm chi đời ta?/Ai đã làm chi lòng ta?/ Cho đời tàn tạ lòng băng giá?/
Sương mong manh quạnh chớm thu già; Ngoài ba mươi tuổi, duyên còn hết?/ Một ván
cờ thua ngả bóng chiều/ Ai khóc đời ai trên bấc lụi?/ Đây mùa thu sớm lửa dần
thiêu v.v.
Có thể nói mảng thơ tình yêu
trong thơ Vũ Hoàng Chương đã vẽ nên chân dung của một chàng si,
chàng say rất đặc
biệt. Đó là con người luôn đắm mình trong những đam mê cùng với một lí trí tỉnh
táo đến tàn nhẫn. Nếu tình yêu là một cơn say thì bi kịch của Vũ Hoàng
Chương là ông đã không thể say hết mình. Luôn luôn, trong những giấc mơ nhân tạo, ông phải đối mặt với những
đường biên giới hạn, những sự thật không chút nên thơ mà lí trí liên tục chỉ ra
một cách vạch vòi, trần trụi. Do vậy, cứ mỗi lần say là một lần phải tỉnh, càng
say lại càng tỉnh, mỗi lần tỉnh lại thêm một lần đổ vỡ, chán nản. Càng ráo riết
truy tìm vẻ đẹp lí tưởng trong tình yêu đôi lứa thì sự thất vọng của ông trong
địa hạt này càng sâu sắc hơn bao giờ hết. Khao khát “toàn hương
và tận mỹ”, luôn tìm
kiếm con đường đạt đến “nguồn tuyệt đối”, rốt cục thi nhân chỉ thấy mình “hoài công
bày dãi ý cao siêu”. Cái còn
lại cuối cùng là nỗi đau buồn, mỏi mệt, chán chường: Có ai say để
quên sầu/ Lòng ta lảo đảo càng sâu vết buồn...
3. Ngôn ngữ thơ Vũ Hoàng
Chương khá đặc biệt. Đó là một thứ ngôn ngữ vừa tân kì, mới mẻ, vừa cổ kính,
trau chuốt. Nhà thơ đã huy động vào tác phẩm của mình khá nhiều những “chất
liệu" của đời sống đô thị hiện đại, chẳng hạn: âm nhạc, khiêu vũ, ánh
sáng, đèn màu, khói thuốc, men rượu... Ông dựng nên trong thơ mình một không
gian đô thị với những thú vui trụy lạc và nỗi chán chường, bế tắc của con
người, (điều này khiến nhiều nhà nghiên cứu liên hệ tới nỗi chán chường của
Baudelaire trong Hoa ác - 1857).
Không chỉ đưa vào thơ những hình ảnh “tân kì” về đời sống, Vũ Hoàng Chương còn
sử dụng âm nhạc như một chất liệu đặc biệt nhằm “dẫn dụ” người đọc đi vào thế
giới thi ca của mình. Thơ ông nhắc nhiều đến âm nhạc, từ các loại nhạc cụ: đàn
sênh, tiêu, sênh phách, trúc ti...; cho đến các bản nhạc, các cung bậc âm thanh, tiết tấu, nhịp điệu và
đặc biệt là những ấn tượng, trạng thái, cảm giác được âm nhạc truyền dẫn, khêu
gợi: nhịp Nghê thường, khúc nhạc hồng, điệu kèn biếc, tiếng tỳ
hư ảo, mình tơ réo rắt, hồn trúc đê mê, nhịp trúc buông khoan, sóng tơ dồn chậm, đàn rưng rưng
lệ, phách dồn mưa... Đọc thơ Vũ Hoàng
Chương, độc giả vừa bị tác động bởi cảm xúc mạnh mẽ của chủ thể trữ tình, vừa
bị “mê hoặc” bởi giai điệu, nhịp điệu đầy âm vang của lời thơ. Chẳng hạn, trong
Say đi em, nhịp bước
chân khiêu vũ đã hoà quyện cùng nhịp xúc cảm. Âm nhạc vừa là đối tượng mô tả
vừa là hình thức mô tả, nhằm thể hiện cảm giác chuếnh choáng, đê mê của chủ thể
trữ tình khi bước đi trong nhịp khiêu vũ, trong vòng tay giai nhân và những cảm
xúc, cảm giác này trùng phùng, hội tụ trong tâm trí người đọc khi lời thơ cất
lên trong một hoà âm dặt dìu, điêu luyện:
Ánh đèn tha thướt
Lưng mềm, não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê, hồn gửi cánh tay hờ.
Âm ba gờn gợn nhỏ
Ánh sáng phai phai dần
Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân
Lui đôi vai, tiến đôi chân
Riết đôi tay, ngả đôi thân
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió.
Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ
Hãy thêm say, còn đó, rượu chờ ta!
(Say đi em)
Thơ Vũ Hoàng Chương còn sử
dụng khá nhiều thi liệu cổ điển, chẳng hạn những từ ngữ, hình ảnh, điển cố quen
thuộc như: danh sĩ, thuyền quyên, trích tiên, Tầm Dương, Liêu Trai,
Hồ Ly, Thiên Thai, Giang Châu, Đào Nguyên, Nghê Thường... Dĩ nhiên, nhãn quan mô tả ở đây là của một
con người cá nhân hiện đại và qua nhãn quan ấy, những thi liệu cũ được “cấu
trúc lại”, mang đậm dấu ấn cái tôi thi sĩ. Những kết hợp hình ảnh, từ ngữ theo
kiểu “tính từ hoá danh từ”, chẳng hạn như: Men càng
ngây ngất ý Tầm Dương; Trăng nước Đà Giang, mộng Liêu Trai; Giấc
hồ thơm tóc gái Liêu Trai; Sầu ai: chuông lẻn giấc Cô Tô; Niềm giang hồ tan tác lệ
Giang Châu .., đã đem
lại những sắc thái cảm xúc, ý nghĩa tươi mới cho những hình ảnh, biểu tượng thơ
xưa cũ. Một mặt, chúng đem lại độ hàm súc, kín đáo trong cách diễn đạt, đồng
thời, tạo nên những ám gợi, liên tưởng sâu xa. Biệt tài của nhà thơ này còn thể
hiện ở chỗ, nhiều khi, giữa dày đặc những thi liệu cổ điển, chỉ cần “điểm” một
vài từ ngữ, ông đã khơi dậy những xúc cảm rất mới, rất sống, chẳng hạn: Xôn xao vò nậm bừng
hương cúc/ Thu nhập hồn men cựa đó
chăng? Những chữ
như xôn xao, bừng, cựa, đã làm cho cả câu thơ sống dậy, đầy biểu cảm. Sự sáng tạo của Vũ Hoàng
Chương còn thể hiện trong những câu chữ, hình ảnh đầy trau chuốt, tài hoa: Bồng
bềnh mun chảy óng lưng son/ Nhạc tía đền vua chuyển gót son/ Yểu điệu Hương
Giang mềm nếp áo/ Trầm bay sóng mỏng vạt trăng non; Ai lạ nghìn thu, xa tám cõi/
Sen vàng như động phía châu liêm/ Nao
nao khói biếc hài thương nữ/ Trở gối, hoa lê rụng trắng thềm; Mùa nhớ
thương sang mộng nõn nà/ Tinh anh nghìn kiếp thoáng dư ba/ Hồn ai xác mới nghe
thoi thóp/ Vang bóng hài xiêm chuyển thớ da... Những kết hợp từ ngữ, hình ảnh theo kiểu
này đã tạo nên những vần thơ giàu sắc thái và ý nghĩa tượng trưng. Chúng vừa là
kết quả của một ý thức nghệ thuật rành rẽ trong việc “làm mới” thơ ca, đồng
thời, còn là kết quả của một tài năng sáng tạo ở độ chín và một nội lực văn hoá
Đông - Tây dầy dặn. Điều này góp phần tạo nên tầng sâu trầm tích văn hoá và độ
mở ngữ nghĩa trong câu chữ, hình ảnh thơ của tác giả này.
Nhìn chung, thế giới tình yêu
trong thơ Vũ Hoàng Chương có thể hiểu như một biểu tượng của hành trình tìm
kiếm lí tưởng, cũng là hành trình tìm kiếm ý nghĩa sự tồn tại của con người cá
nhân trong đời sống hiện đại. Chân dung cái tôi trong thơ Vũ Hoàng Chương khá
đặc biệt, nó cho thấy những tìm tòi cũng như những bế tắc, cực đoan trong đời sống
tinh thần của các nhà Thơ mới ở thời kì cuối. Vừa duy lí vừa duy mĩ. Đầy đam
mê, cũng đầy chán chường, khinh bạc. Quá ư nhạy cảm và tỉnh táo, cũng do vậy mà
càng dễ tổn thương, mệt mỏi. Đó có lẽ cũng là bức chân dung tinh thần Vũ Hoàng
Chương mà một hoạ sỹ từng phác họa: “Vũ cô đơn. Mọi cánh cửa đều khép chặt
trước mặt. Ba chiều không gian đã đóng kín. Vũ đành đốt tâm tư để mở một chiều
riêng cho mình. Ấy đó, niềm cô đơn mà Vũ đã mang trọn kiếp người bật khóc trong
thơ...” [2].
Vinh, 2007
L.H.Q
L.H.Q
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1.
Thơ mới 1932 – 1945, tác giả và tác phẩm (1999), Nxb Hội Nhà văn Hà Nội.
2. Tạ Tỵ (1996),
Mười khuôn mặt văn nghệ, Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội, tr.157.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét