THƠ
NGUYỄN ĐỨC TÙNG,
“NƠI
CÂU CHUYỆN BẮT ĐẦU BẰNG NGÔN NGỮ KHÁC”
Lê
Hồ Quang
Bìa tập Thơ buổi sáng của Nguyễn Đức Tùng
Nếu phải khái quát về thơ của Nguyễn Đức Tùng, tôi sẽ mượn chính thơ ông để diễn tả - đấy là “nơi câu chuyện bắt đầu bằng ngôn ngữ khác”. Tính truyện là một đặc điểm thi pháp nổi bật của thơ Nguyễn Đức Tùng. Bằng thơ và qua thơ, tác giả nhẩn nha kể cho chúng ta nghe những câu chuyện của đời người, những câu chuyện kết đọng trải nghiệm, xa xôi và xưa cũ nhưng sáng nét lạ lùng. Ký ức của cá nhân, của cộng đồng đã được đánh thức bởi những câu chữ chừng như không thể đơn giản, gọn gàng hơn trong Làng quê, Chiến tranh, Ký ức những năm 80, Đêm ngủ trên nền nhà cũ, Hai vầng trăng, Em, Lịch sử làng tôi… Đừng tìm kiếm những cảm giác êm đềm, ngọt ngào theo kiểu thi vị hóa khi đọc những bài viết về tuổi thơ, về mẹ hay quê hương của tác giả này. Đấy là một ký ức không nguyên vẹn, đầy đổ vỡ và luôn găm lại cảm giác đau đớn. Chỉ có điều, cùng thời gian, nó ngưng lại trong cái nhìn phân tích tỉnh táo và lặng lẽ:
Chiến tranh
Người
đưa thư
Dựng
xe đạp trước nhà
Uống
với dì tôi một tách trà
Rồi
lặng lẽ cáo lui
Không
biết dì tôi không biết chữ
Trong
phong bì là giấy báo tử
Câu chuyện được kể theo trật tự tuyến tính mạch lạc. Từ ngữ ngắn gọn và đơn giản, không hề gây khó độc giả. Bài thơ dường như thuần sự kiện, những sự kiện được lược thuật từ góc nhìn của đứa cháu, người chứng kiến và kể chuyện, với sự giản ước tối đa ngôn ngữ biểu cảm. Cái còn lại là một tình huống của đời sống và số phận.
Thơ đã đi qua rất nhiều chặng đường lịch sử. Từ những trữ tình rậm lời của thơ tiền hiện đại đến sự tối tăm và hóc hiểm ngôn ngữ của thơ hiện đại, qua mê cung "giải thiêng", "giải đại tự sự" của thơ hậu hiện đại, một lúc nào đó, người ta bỗng cần thơ như những câu chuyện bình dị của đời sống con người. Những câu chuyện của Thơ, như Nguyễn Đức Tùng đã làm trong tác phẩm của mình.
Trong thơ Nguyễn Đức Tùng, ký ức là một
cõi riêng và dường như bất khả xâm phạm. Đó dường như chỉ là ký ức của cá nhân,
khó lòng chia sẻ, được “ghi chép” lại bằng thứ ngôn ngữ tương thích lạ lùng với
chính nó. Nhưng cũng bởi vì quá cá nhân và riêng tư nên nó vô tình làm hiển lộ
một vùng ký ức khác, hết sức rộng lớn, âm u và dai dẳng, dòng bi ký của lịch sử
dân tộc mà con người thuộc về, và có thể hơn thế, của cả lịch sử nhân loại. Sự
chồng lấn ấy cho phép quá khứ hiện hữu cùng hiện tại, cùng với hiện tại, nó xác
định sự tồn tại có lý do của con người dù anh ta không ngừng phản tư về điều
đó. Ký ức được tự do lựa chọn những miền nhớ và biểu hiện theo cách riêng, có
khi như một âm thanh, một hình ảnh sống động vụt hiện, có khi như một cảnh tượng
vô cùng mơ hồ, lạ lùng, một tiếng nói thì thào vụn vặt kéo dài:
-
Trời tối rồi
Những
đứa trẻ bỏ cuộc chơi ra về
Khi
nghe mẹ gọi
Một
đứa còn ngồi lại
Đếm
những hòn bi ăn được
Trước
căn nhà vắng lạnh của mình
(Tuổi thơ)
- Khi anh trở về
Người
vợ đã chết
Vết
máu khô trên ngực
Trong
bụi tre cú rúc liên hồi
(Làng quê)
-
Một tai nạn khủng khiếp
Chỉ
một người sống sót
Kể
lại bí mật
(Buổi chiều)
-
Khi trong đêm
Một
người về gõ cửa
Thấy
mùa hè đi qua trên một lưỡi dao…
Không
ai biết cuộc chiến tranh của chúng ta
Vừa
bắt đầu trên một xứ sở khác
(Ngày của em)
Trong cõi nhớ này, các chiều kích không/
thời gian vừa tiếp nối vừa song hành, vừa tuần tự vừa bất định. Chúng có thể
kéo dài miên man đồng thời cũng liên tục thay đổi, tựa như những phiến phong cảnh
không ngừng đổi thay khi ta nhìn qua ô cửa toa tàu trên đường xa vạn dặm. Đó là
hành trình tâm tưởng, nó không bị (và không thể) găm cứng bởi bất kỳ cái mốc hạn
định nào. Nó liên tục vận động, chảy trôi, không ngừng va đập trong những xúc cảm
trái ngược, trong nỗi hoài nhớ và cảm giác bất an thường trực (đó là lý do khiến
bài thơ đôi khi hơi loãng ý và dài dòng). Tựu trung, đó là ký ức của một cá
nhân chưa bao giờ (trong ý thức và có lẽ, trong cả vô thức) lìa xa cội rễ đã
sinh thành ra nó - một bối cảnh đầy máu và nước mắt của lịch sử dân tộc và từ
trên những vách đá chất ngất đau thương, thù hận, biết nở ra những đọt mầm của
hy vọng.
Nếu tính chủ quan được xem như một đặc thù
thể loại của thơ trữ tình (theo quan niệm truyền thống và phổ biến) thì ở thơ
Nguyễn Đức Tùng, tính khách quan mới là đặc trưng nổi bật. Tính khách quan được
thể hiện từ phương diện ngôn ngữ đến cách tái hiện hình tượng, tình huống, sự
kiện… Đọc thơ ông, độc giả dễ có cảm giác dường như tác giả tập trung đến việc
kể/ tả/ phân tích hơn là việc giãi bày xúc cảm hoặc thổ lộ cái tôi. Sự việc được
đẩy lên bề mặt của văn bản với tất cả những đặc điểm, tính chất khách quan, tự
nhiên nhất. Tác giả dường như chỉ làm mỗi một việc là trình bày sự việc ra trước
độc giả như nó là, không tô vẽ, không
thêm bớt. Và ông thực hiện điều này rất đỗi tự nhiên. Hãy lấy một ví dụ - bài Trên đường:
Lái
xe trên đường
Đêm
tối mù, mưa rơi
Xe
đánh ầm một tiếng, giật nẩy lên
Khựng
lại, quay nghiêng
Rồi
vọt tiếp, đang vội
Chắc
chắn tôi đã cán chết người
Nhưng
không ai biết. Đêm tối đường
Trơn
mưa rơi mù mịt
Tôi
định chạy luôn. Nhưng
Nỗi
sợ hãi dâng lên. Một điều gì
Chặn
ngang ngực. Tôi quay xe lại
Đậu
bên kia đường. Bật đèn
Nhấp
nháy. Tôi thận trọng run rẩy băng qua đường
Kẻ
bị tôi đụng phải
Đang
chậm chạp đứng dậy
Nhưng
đó không phải là một người.
Bằng thủ pháp hãm chậm, nhà thơ đã kéo giãn
khoảnh khắc “Xe đánh ầm một tiếng, giật nẩy
lên”, khiến nó trở nên như vô tận. Nhân vật kể chuyện (và cả độc giả) như
mê mụ đi trong sương mù cảm giác, đến tận dòng kết mới choàng tỉnh: “Nhưng đó không phải là một người”. Nhìn bề mặt, bài thơ dường như thuần túy
thuật truyện, nhiều chi tiết sắc lạnh, “rất Tây” (xin đặc biệt lưu ý cách diễn
đạt ở câu cuối). Nhưng sự thật đấy là một diễn trình giải phẫu tâm lý rất
nhanh, rất nhà nghề, dứt khoát và rành mạch, thể hiện ngay trong hình thức ngắt
nhịp giật cục đầy bất thường của hàng loạt câu thơ. Chỉ một khoảnh khắc mà như
vô tận. Và trong khoảnh khắc ấy, con người phải đối mặt với bản chất cố hữu: nỗi
sợ hãi, đớn hèn, thói vô trách nhiệm, sự bất lương, tráo trở. Tuy nhiên, cuối
cùng, trong tình huống giả định ấy, lương tri con người đã chiến thắng: “Tôi quay xe lại”. Và đã được đáp đền.
Nhưng đấy vẫn là một kết thúc để ngỏ. Bởi nếu
đó là một người? Cơn ác mộng chưa kết thúc.
Tất nhiên, ấn tượng về sự khách quan “như
thực” này chỉ có thể được tạo ra bởi một nhãn quan và kỹ thuật viết độc đáo (mà
tôi sẽ nói cụ thể hơn ở phần sau) chứ không đơn thuần là sự sao chép hiện thực.
Tính trữ tình trong bài thơ được thể hiện thông qua bức tranh đời sống được mô
tả và cùng điều đó, nhà thơ đồng thời trao quyền diễn giải rộng rãi cho người đọc.
Ở đây, ta thấy một tư tưởng: chỉ khi đời sống hiện diện như nó là, người ta mới có thể cảm nhận và thấu suốt - một cách trọn vẹn, ngay lập tức - về sức mạnh, vẻ đẹp
cũng như giá trị của nó.
Nhưng có phải chỉ đến Nguyễn Đức Tùng mới
xuất hiện lối viết này? Không phải. Ngay từ thời Thơ mới, lối trữ tình bằng
hình thức kể chuyện đã khá phổ biến trong thơ Nguyễn Bính, Nguyễn Nhược Pháp,
TTKH… Thời thơ kháng chiến, ta cũng rất quen với những Núi Đôi (Vũ Cao), Màu tím hoa
sim (Hữu Loan), Cuộc chia ly màu đỏ
(Nguyễn Mỹ), Hơi ấm ổ rơm (Nguyễn
Duy)…Thơ miền Nam 1954 - 1975 cũng không hiếm tác giả thơ sử dụng lối trữ tình - tự sự: Nguyên Sa, Du Tử Lê, Nguyễn Tất Nhiên... Không thể nói những bài thơ này thiếu sự kể, tả sinh động, chân xác. Vấn
đề là, ở đây nhu cầu tả thực luôn bị át đi bởi nhu cầu trữ tình, và trữ tình một
cách “thiết tha”, “nồng nàn”. Trong thơ Việt Nam đương đại, cũng không thiếu những
cây bút trữ tình bằng hình thức tự sự. Lê Văn Ngăn, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn
Phấn, Inrasara… có nhiều bài thơ viết theo lối này. Nhưng dường như ngay khi tả
thực, thậm chí cực thực, nhiều bài thơ của họ vẫn nhằm hướng đến một cái đích
tượng trưng nào đó. Nguyễn Đức Tùng khác hơn: ông muốn sự vật hiện diện trong
thơ như là chính nó. Và ông tin sự vật có thể hiện diện như là chính nó. Ông muốn
xé toạc tận lõi cái vỏ ẩn dụ trong thói quen tư duy thơ để sự vật trần trần trực
sự, không cần bất kỳ một “phụ chú” giãi bày xúc cảm nào. Đây là hướng tìm tòi khá
tập trung và ngày càng rõ nét của tác giả này. Trong một liên hệ tự nhiên, tôi
nghĩ tới phong cách thơ của một tác giả Mỹ hiện đại mà Nguyễn Đức Tùng đã từng
viết rất hay về ông, nhà thơ William Carlos Williams với những bài “thơ đề trên
cửa”.
Tuy nhiên, chính khi đi đến tận cùng
cái thực, như một nghịch lí, thơ Nguyễn Đức Tùng lại có khả năng gợi ra nhiều chiều
suy tưởng, tưởng tượng. Thường được cấu tứ dựa trên một tình huống đời sống cụ
thể, bài thơ của ông sẵn sàng phiêu lưu tới những chiều kích liên tưởng mênh
mông, không thể kiểm soát. Dẫn
ta đi không phải mạch suy lí mạch lạc mà là hình ảnh và cảm giác bất định. Kết
thúc bài thơ thường là một hình ảnh lơ lửng, vừa thực vừa hư ảo, hiện lên vào
đúng lúc ấy trong tâm trí, đánh thức một cảm giác mơ hồ
nhưng hữu lí, hoàn toàn bất ngờ so với dự kiến (có thể có) ban đầu.
Sau đây là một ví dụ.
Đêm ngủ trong chùa
Đôi khi con biết mẹ nằm trong đất
Lặng im như hòn đá
Đôi khi con biết không phải thế
Đôi khi con biết mẹ về
Trong chiếc chiếu hoa
Đêm nay ngủ lại trong chùa
Thức suốt đêm đập muỗi
Không con nào chết
Chúng lọt hết qua kẽ tay
Trừ một con
Bay về lúc nửa đêm
Kịp lặng lẽ đẻ trứng xuống
Bể nước đầy cơn mưa cũ
Bài thơ là sự pha trộn giữa kí ức và
thực tại. Mơ và thực. Nỗi đau và sự thức tỉnh. Thủ pháp trùng điệp, sự tiết chế
tối đa tính từ biểu cảm, cùng những khoảng trắng gián cách văn bản ở phần trên tạo
áp lực dồn nén cảm xúc ở đoạn cuối. Sự dồn nén càng trở nên đặc biệt khi chỉ
trong hai dòng kết xuất hiện cùng lúc ba tính từ (“lặng lẽ”, “đầy”,
“cũ”). Nó làm dậy lên cảm giác mơ hồ, bất an, khắc khoải. Hình ảnh kết
thúc bài thơ tô đậm thêm cảm giác hư ảo bởi chính sự tả (cực) thực của nó.
Chúng ta sẽ yêu nhau như thế này chăng? cũng bắt đầu từ một khung cảnh rất cụ
thể, từ không gian, thời gian (Ngoài hiên, sau giàn bông giấy,
trăng lên); đến hành động con người (Họ ngồi
bên nhau suốt buổi chiều; Một người đứng dậy thắp đèn, một người/ Sửa soạn bữa
ăn); đến các sự vật (Hai cái muỗng, hai đôi đũa/ Hai ly nước, hai tách
trà sữa). Cảnh tượng được mô
tả tỉ mỉ, lớp lang như trong một cảnh phim quay chậm, theo những diễn biến hành
động của “họ” (tôi lược bỏ một số chi tiết để dễ hình dung hơn tính diễn tiến
của câu chuyện): Họ ngồi bên nhau suốt buổi chiều/ Một người đi trước,
ra cửa/ Một người theo sau/ Đi chậm rãi/ Ra sân gạch, qua ảng nước/
Họ theo nhau ra tới đường/ Người đi sau/ Vội vươn tay ra/ Người kia/ Vừa chạm
tay vào cánh cổng/ Bỗng tuột tay/
Và ngã xuống… Tập trung vào các
chi tiết nhỏ, với giọng điệu trữ tình trung tính, gần như vô âm sắc, tạo nên khoảng
gián cách có chủ ý với đối tượng, tác giả đã làm ngưng đọng bầu khí quyển của hơn
50 năm trước, với một hiện thực "vi lịch sử" thu gọn trong không gian riêng
tư của “ông bà ngoại của tôi”. Được ngưng giữ trong bầu không - thời
gian có tính vĩnh viễn, tình yêu con người, biểu lộ qua những cử chỉ quan tâm
ân cần, dường như cũng đã trở thành vĩnh viễn.
Khá
gần gũi với Bừng
ngộ của A. Rimbaud trong cách tái hiện,
đan cài cùng lúc nhiều lớp không gian và thời gian của quá khứ và hiện tại,
thực tế và ảo tượng, song kết cấu Chúng ta sẽ yêu nhau như
thế này chăng? không đứt đoạn quá đột ngột. Sự thực thì nó vẫn tôn trọng trật tự
tuyến tính bề mặt trên văn bản. Tuy nhiên, kĩ thuật gián cách và thủ pháp mô tả
theo kiểu điện ảnh cũng đồng thời gợi nên những nhận thức, cảm giác trái ngược,
đồng thời có tác dụng gợi ra cái mênh mông hư ảo của tình yêu và cuộc đời.
Chọn phương thức trữ tình theo lối tự sự, nhà
thơ cũng chọn lựa một giọng điệu riêng, đặc biệt thích hợp để kể những câu chuyện
của mình - nhẹ nhõm, từ tốn, bình thản, không cao giọng. Ta hãy đọc Thời gian của một ngày:
Bạn nghĩ một đời bắt đầu từ lúc sinh
ra
Đến
khi chết. Một ngày bắt đầu từ sáng
Đến
khi bạn lên giường, tắt đèn, nằm dưới cơn mưa
Bạn
nhớ lại: buổi học đầu tiên, kỳ thi cuối cùng
Nụ
hôn ở giữa, cuộc chiến tranh
Những
cãi vã, nạn cháy rừng, đứa bé chết trôi mùa lũ
Cuộc
khủng bố. Nhưng một ngày không kéo dài cách ấy
Nếu
bạn muốn sống nhiều cuộc đời trong một
Không
phải chấn thương, khúc quanh, mà chính buổi sáng
Bình
yên, ly cà phê quán cóc, thư viết tay, trò chuyện mỗi ngày bên bàn ăn, ngọn đèn
bếp ấm, đơn điệu của tình yêu, nhiệm vụ lặp lại
Của
tình bạn, tiếng tích tắc đồng hồ, lặp lại, mơ hồ nhớ, hay khắc sâu trong ký ức
Sẽ
kéo dài ra cuộc đời bất tận
Như
khi người khách lạ, vừa đi vội vã vừa kéo lê va li trên đường
Hoàng
hôn xuống, trong rừng, bạn lái xe, trời sắp mưa, bạn phân vân nửa muốn dừng
Nửa
muốn không. Và bạn đã dừng lại, và một ngày như thế sẽ dài ra
Ngoài việc tước bỏ tối đa những lời giãi
bày cảm xúc trực tiếp của cái tôi hoặc mô tả sự việc theo những diễn biến (như
là) khách quan, tác giả thường tập trung vào việc khắc họa tình huống câu chuyện.
Các tình huống thường được tạo nên bởi sự bất ngờ của chi tiết đóng vai trò lẫy
chốt. Chi tiết này thường nằm ở dòng/ câu cuối, đem lại một nhận thức trái ngược,
thậm chí đối lập hoàn toàn với thông báo ta nhận được từ toàn bộ những dòng thơ
trước đó. Do vậy, nó tạo nên một kết thúc kịch tính:
Sau chiến tranh
Mỗi
khi trời trở gió
Anh
thường đau
Ở
bắp chân
Không
còn ở đó
Câu thơ “bắp chân không còn ở đó” đã được cắt rời để tạo nên sự bùng nổ vào
phút chót, lật nhào cái trật tự (tưởng như) bình thường, êm thấm, xuôi chiều
trước đó. Đáng chú ý nhất trong bài thơ chính là cái quãng ngắt bất thường ấy.
Nó diễn tả thấu triệt nỗi mất mát của con người ngay từ cảm giác về cái trống rỗng
hiện diện trong khoảng cách của dòng thơ. Đây thực ra là một kiểu cấu tứ “tân cổ
điển”. Kết thúc của bài thơ không trùng với sự kết thúc, khép kín trọn vẹn về
nghĩa. Ở những bài thơ dài hơn (về số lượng chữ), chẳng hạn Trong ký ức của chủ tịch xã, Em không muốn về quê, Em… câu kết thúc cũng đóng vai trò như
vậy: nó phong kín một cảm giác đau đớn, không thể hóa giải, không thể tan chảy,
một nỗi cuồng nộ ẩn sau vẻ bình thản câm lặng.
Rượu
vang đỏ thắm là
một ví dụ khác:
Khi
cuộc cãi vã xảy ra
Cô
ném vào mặt anh
Nửa
cái bánh pizza
Rồi
bước xuống cầu thang
Nửa
chừng
Dừng
lại
Rất
lâu
Vì
bỏ quên trên lầu
Cái
nút mở chai
Chi tiết cô gái “nửa chừng/ dừng lại/ rất lâu” trên bậc cầu thang sau cơn giận giữ
có thể khiến người đọc tò mò. Vì cô hối hận chăng? Vì bối rối và muốn làm lành
chăng?... Nhưng hóa ra, lý do đích thực lại là bởi “vì bỏ quên trên lầu/ Cái nút mở chai”. Một nghịch lý hài hước nhẹ
nhàng. Ẩn sau đó là một nụ cười. Dẫu vậy, Rượu
vang đỏ thắm có lẽ không chỉ là một bài thơ hướng đến mục đích triết lý. Sắc
đỏ ấy, bước chân ngập ngừng ấy còn gợi ra một vẻ đẹp dung dị ẩn trong những ấm
lạnh đời thường. Kiểu kết thúc ẩn chứa ý vị giễu cợt (đôi khi pha chút mỉa mai)
còn hiện diện trong nhiều bài thơ khác: Đi
dạo với một nhà văn dưới ánh trăng, Trí thức, Bức tượng…
Dù viết về những đề tài mang tính sử thi
như chiến tranh, lịch sử hay về đời sống thế sự, tư cách người quan sát ở ngòi
bút này rất rõ. Quan sát để không bỏ qua những chi tiết dù nhỏ nhặt nhưng nhiều
khi lại là yếu tố cốt tử tạo nên bản chất đời sống. Quan sát để ghi nhớ, để chứng
thực, không phải với tư cách kẻ đứng ngoài vô can mà với tư cách kẻ trong cuộc tỉnh
táo, vừa biết nhập cuộc vừa biết đứng tách ra, để nhận thức thực tại một cách rạch
ròi, sòng phẳng. Có một sự cứng rắn và kiên quyết, đôi khi mỉa mai ngầm ẩn sau
vẻ ngoài lịch lãm, ôn hòa của Nguyễn Đức Tùng. Ông không từ chối mô tả hiện thực
lịch sử cụ thể với tất cả sự gai góc, dễ gây xung đột của nó: Chùa trên núi,
Sau chuyến nghỉ hè ở New York, Nhịp
đập, Ngọn lửa, Những kẻ tra tấn, Trong kí ức của chủ tịch
xã, Bây giờ thì bạn đã biết tới, Trong khi chờ Godot, Thăm Trung Hoa, Mùa thu năm 1977,
Con mèo, Một điều gì đang xảy ra… Hãy đọc Trong kí ức của chủ tịch xã. Từ điểm nhìn (như là) thuần túy khách
quan của nhân vật trữ tình, lịch sử một đất nước đầy bạo lực, chia rẽ, chết
chóc đã được tái hiện. Quan sát điểm nhìn này, ta sẽ thấy con người thực chất
chỉ là nạn nhân của lịch sử. Nhưng không chỉ thế. Vừa là nạn nhân, họ đồng thời
là đao phủ.
Sự mô tả cụ thể và chân xác đối tượng, lột
bỏ triệt để những xống áo trữ tình, là yếu tố cốt lõi tạo nên tính khách quan ở
những bức tranh đời sống trong thơ Nguyễn Đức Tùng. Những tình huống, chi tiết,
hình ảnh được cấu trúc thành một chỉnh thể mà sự liên kết chặt chẽ giữa chúng
khiến người ta khó nghĩ tới một hình thức tồn tại khác. Rời ra, chúng chỉ còn
là những mảnh vụn vô nghĩa.
Năng lực quan sát tinh nhạy và khả năng
khái quát hóa mạnh mẽ từ những điều giản đơn, bình thường, ấy thực sự là sức mạnh
của ngòi bút này. Vẫn là cái nhìn quan sát sắc sảo ấy, khi nhà thơ viết/ kể về
tình yêu trong Những con rệp:
Ngày
thứ hai của tuần trăng mật
Chúng
ta ngủ trong một khách sạn rẻ tiền
Những
con rệp cắn anh suốt đêm
Bây
giờ đây anh nhớ chúng khôn xiết
Khi
mỗi lần đi ngang mộ em
Ta có thể nói về nhiều thứ gây ấn tượng ở
bài thơ, chẳng hạn, tính tối giản của chi tiết, sự rút ngắn đột ngột trong khoảng
cách thời gian, sự tương phản giữa những không gian mô tả… Chúng rất dễ dẫn đến
diễn ngôn triết lý quen thuộc về khoảng cách vô tận giữa quá khứ và hiện tại,
cuộc sống và cái chết, tình yêu và nỗi đau chia lìa… Nhưng tôi chú ý hơn đến sự
đồng nhất khá bất thường giữa bộ ba hình ảnh những con rệp/ khách sạn rẻ tiền/ em (người vợ, đã mất). Hãy thử
liên hệ với hình ảnh em trong thơ của
Huy Cận, Hàn Mặc Tử… hoặc em trong những
câu thơ Nguyên Sa - áo nàng vàng anh về
yêu hoa cúc/ áo nàng xanh anh mến lá sân trường để thấy sự khác biệt. (Dĩ
nhiên, cũng có lúc Nguyên Sa có sử dụng hình ảnh suồng sã hơn, chẳng hạn: Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm/ Như con
mèo ngái ngủ trên tay anh, nhưng ngay cả khi đó thì cái phẩm tính lãng mạn
vẫn tràn trề). Vấn đề không dừng lại ở hình ảnh mà nằm trong quan niệm về tính thơ. Với Nguyễn Đức Tùng, cuộc đời
là thế: vừa trần trụi thô bạo vừa ân tình, ân nghĩa, vừa đẹp đẽ cao quý vừa vặt
vãnh tủn mủn, vừa nghiêm trang vừa hài hước, vừa có lý vừa phi lý… (ngoài bài Những con rệp nói trên, còn có thể kể đến
Thơ tình như một ví dụ tiêu biểu
khác). Do đó, tính thơ có thể đến ngay từ trong cái đời thường, cái hài hước, cái
thông tục và cái hiện tại. Hoàn toàn không phải một ý niệm tiên nghiệm, khô cứng,
nó luôn được mở rộng, được làm mới từ những trải nghiệm sáng tạo khác biệt. Như
vậy, sự bất ngờ của tình huống hay sự suồng sã trong các chi tiết kể, tả nói trên,
xét đến cùng, là thủ pháp nhằm tạo nên tính thơ theo kiểu Nguyễn Đức Tùng.
Những câu
chuyện thơ của Nguyễn Đức Tùng đẹp một cách mới lạ song vẫn có cái gì đó rất gần gũi. Nói cách khác, chúng hiện đại một cách cổ điển. Dĩ
nhiên, ảnh hưởng của thơ phương Tây ở thơ ông là không thể phủ nhận. Sắc thái
“Tây hóa” thể hiện trước hết trong tinh thần tôn trọng tính khách quan của sự vật
và cái nhìn giải phẫu đời sống cặn kẽ và giàu lý tính. Đây mới là điều tạo nên
cái lạ (và mới, hiểu theo nghĩa là một giá trị) trong tinh thần, tư tưởng thơ của
Nguyễn Đức Tùng chứ không phải ở cách sử dụng các vật liệu phương xa như hoa forsythia, trạm xe điện, bill điện thoại,
bánh pizza… (Nếu tính về chất liệu thì sự thực là chất liệu truyền thống,
do sức mạnh của hồi ức, lại có phần lấn át với số lượng những chiếu hoa, bể nước, bụi tre, thang thuốc bắc,
bến đò, đồng tiền kẽm, cuốn Kiều, ngôi chùa…). Dĩ nhiên, cũng cần kể tới những
cấu trúc ngôn ngữ khá lạ tai, thậm chí gây cảm giác giống thơ dịch, in đậm dấu ấn
kiểu tư duy và diễn đạt của một người từng sống lâu ở nước ngoài. Song, nhìn một
cách bao quát, yếu tố quen và lạ, truyền thống và hiện đại, phương Đông và
phương Tây dường như vẫn tìm được một sự “hòa giải” và hòa hợp khá tự nhiên
trong thơ Nguyễn Đức Tùng. Bên cạnh
thơ tự do, thơ văn xuôi, Nguyễn Đức Tùng còn sáng tác theo nhiều thể khác, chẳng
hạn lục bát, tứ tuyệt, ngũ ngôn, thất ngôn, trường ca, haiku… Bên cạnh xu hướng
nới rộng, kéo dãn dòng thơ, câu thơ theo hướng văn xuôi hóa, ông còn tìm tòi
theo hướng ngược lại - cô đúc chữ tới mức cực hạn trên một số văn bản. Điều này
cho thấy tinh thần dụng bút khá thoải mái của tác giả. Dường như ông không bị
(và nhất định không chịu để bị) chết cứng ở một hình thức/ lối viết (xin nhắc
thêm, ngoài sáng tác thơ, Nguyễn Đức Tùng còn là một nhà phê bình sắc sảo và là
một tác giả tùy bút tinh tế, tài hoa). Tuy nhiên, riêng ở thơ, tôi nghĩ thơ tự
do, thơ văn xuôi mới là mảng bộc lộ sắc nét nhất tinh thần Nguyễn Đức Tùng.
Thơ
đến từ đâu? Thơ cần thiết cho ai?... là câu hỏi mà Nguyễn Đức
Tùng từng đặt ra cho nhiều người trong những cuốn sách đã xuất bản trước đó. Từ
góc nhìn của mình, tôi nhận ra Thơ, với ông, hẳn đã đến từ những câu chuyện của
ký ức, rộng lớn và bí ẩn, đôi khi tăm tối bởi những nỗi đau và vết thương rách
xé, song luôn được rọi sáng bởi lương tri và tình yêu đối với đời sống và con
người, và bởi vậy, nó làm nên căn cốt và sức mạnh tinh thần của hiện tại. Do
đó, thơ cần thiết trước hết là cho chính ông - một nghệ sỹ, một trí thức. Nhưng
đồng thời, khi đó, thơ cũng trở nên cần thiết cho độc giả, những người
muốn tìm thơ để làm đầy hơn cảm giác sống và để biết rằng, thơ đôi khi rất giản
dị, như chính những câu chuyện của đời sống con người.
L.H.Q
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét