MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG THI PHÁP THƠ MỚI
Lê
Hồ Quang
Nghiên cứu về bình diện thi pháp của tác phẩm văn học,
không thể không đề cập đến những quan niệm, tư tưởng thẩm mĩ của chủ thể sáng tạo.
Chúng tạo nên “cái lí” ở bề sâu tác phẩm và chi phối mạnh mẽ tới những phương
thức, phương tiện thể hiện. Trong bài viết này, tôi muốn tập trung trình bày về
một số quan niệm, tư tưởng đáng chú ý trong thơ tình thuộc Thơ mới: những
quan niệm, tư tưởng đóng vai trò như những “nguyên tắc” sáng tạo trong bộ phận
thơ này. Dĩ nhiên, đấy là những nguyên tắc được khái quát lên từ thực tế
văn học, chúng nằm trong sáng tác và được bộc lộ thông qua thế giới nghệ thuật,
qua các phương tiện hình thức của thi ca.
1. Coi trọng những biểu hiện cảm xúc
tình yêu cá nhân, cá thể
Sau những thế kỉ dài bị kiềm toả bởi tư tưởng Nho giáo, đầu
thế kỉ XX, cùng những biến động, rạn vỡ trong đời sống văn hóa - xã hội, việc
làm thơ và nhất là thơ tình, với các tác giả Thơ mới, mang ý nghĩa một hành động
khẳng định cá nhân tích cực, mạnh mẽ. Thực chất, hành động sáng tạo này xuất
phát từ một “nhu cầu khẩn thiết” của lớp thanh niên thời đại ấy: nhu cầu “được
thành thực”(Hoài Thanh). Bởi vậy, người ta đặc biệt chú ý tới việc thể hiện những
cảm xúc tình yêu cá nhân, cá thể trong thơ, thậm chí, còn xem nó như là một
“nguyên tắc” mô tả và cần được “tuân thủ” triệt để: chúng đồng nghĩa với sự bộc
lộ cao độ “cái tôi” trong hoạt động sáng tạo, trong nỗ lực biến thơ ca thực sự
trở thành “tiếng kêu tự nhiên của con tim” (Phạm Quỳnh).
Nguyên tắc nghệ thuật trên (gọi ngắn gọn là nguyên tắc cá
thể hóa) được thể hiện khá rõ qua cách các nhà Thơ mới “xử lí” đề tài tình
yêu trong sáng tác của họ. Trong Thơ mới, phần lớn các tác giả đều viết và viết
nhiều về tình yêu, một đề tài vốn ít được coi trọng trong thơ trung đại. Nhưng
lựa chọn đề tài chưa đủ. Quan trọng hơn là “khâu” khai thác đề tài. Đấy là công
đoạn tác giả sử dụng những thao tác nghệ thuật để chuyển hóa tình yêu từ một hiện
thực đời sống trở thành một hiện thực thơ ca, từ những vật liệu thô mộc của đời
thường thành chất liệu nghệ thuật, từ tình yêu đôi lứa muôn đời thành “tình yêu
của tôi”. Do đó, sự sáng tạo được đặc biệt chú trọng trong tâm thế “đây là chuyện
của riêng tôi và tôi sẽ nói theo cách của tôi”. Thật ra, trước đó, các nhà thơ
trung đại cũng rất đề cao cảm xúc trong thơ, nhưng là những cảm xúc “tao nhã”,
“hướng thượng” theo quan niệm Nho gia chứ không phải những cảm xúc yêu đương mà
theo họ là “tầm thường”, “yếu đuối”. Mặt khác, hình thức quy phạm của bài thơ cổ
điển cũng là một trong những nguyên nhân khiến người xưa không dễ bộc lộ những
xúc cảm chân thật, tự nhiên của mình. Chùm Vô đề của Lí Thương Ẩn
(thời Vãn Đường) là một ví dụ. Theo một số tài liệu, chùm thơ này viết về những
mối tình có thực, đầy éo le và tuyệt vọng của tác giả đối với những người con
gái mà trong đó, có hai chị em được tuyển làm cung nữ và một cặp khác đã cắt
tóc đi tu. Thế nhưng, nỗi tuyệt vọng ấy, khi được đưa vào thơ, dường như cũng bị
trừu tượng hóa, mơ hồ hóa bởi các “thủ pháp bị động” và “thủ pháp chủ động”
(theo cách nói của nhà nghiên cứu F. Cheng). Hãy đọc lại bài Vô đề
thứ nhất để cảm nhận rõ hơn về điều này:
Tương
kiến thì nan biệt diệc nan
Đông
phong vô lực bách hoa tàn
Xuân
tàm đáo tử ti phương tận
Lạp
cự thành hôi lệ thuỷ can
Hiểu
kính đãn sầu vân mấn cải
Dạ
ngâm ưng giác nguyệt quang hàn
Bồng
Lai thử khứ vô đa lộ
Thanh
điểu ân cần vị thám khan
Dịch nghĩa:
Gặp
gỡ nhau đã khó, chia lìa nhau lại càng khó
Gió
xuân không đủ sức, để trăm hoa úa tàn.
Tằm
xuân đến chết thì mới hết nhả tơ,
Ngọn
nến thành tro mới khô nước mắt.
Sớm
mai soi gương, buồn cho tóc mai đã thay đổi,
Ngâm
thơ ban đêm chợt biết ánh trăng lạnh lẽo.
Muốn
tới Bồng Lai nhưng không có nhiều lối.
Nhờ
chim xanh vì ta mà ân cần thăm dò...
(Bản
dịch của Lê Nguyễn Lưu)
Ngay trong liên thứ nhất, bài thơ đã kịp hé lộ một cảnh
ngộ ngang trái và tâm sự đầy giằng xé, u uẩn của con người. Tuy nhiên, hiện tượng
“ẩn chủ ngữ” đã xoá đi tính xác định của chủ thể, và nỗi đau, do vậy, được trừu
tượng hóa, như của một ai khác, bên ngoài nhà thơ. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của
các biểu tượng như gió đông, tơ tằm, lệ nến, tóc mây, Bồng Lai, chim xanh...
cùng hình thức đối ngẫu trên nhiều cấp độ hình ảnh, cú pháp, cũng góp phần làm
tăng thêm những nét nghĩa tượng trưng, mơ hồ. Đặc biệt, cũng giống nhiều bài
thơ Đường khác, trong Vô đề, những cảm xúc, suy tư về tình yêu
luôn được đan lồng, soi chiếu trong cảm nhận về những chiều kích không - thời
gian vô cùng, do đó, nhận thức về tình yêu đồng thời cũng là nhận thức về những
vấn đề mang tính quy luật của nhân sinh, vũ trụ. Rốt cục, những trạng huống cảm
xúc phổ quát được tô đậm còn những rung động cá thể thì được/ bị dồn nén, tiết
chế cao độ. Dĩ nhiên, đây cũng là một nét đặc thù của thơ ca trung đại.
Như một phản ứng quyết liệt đối với tinh thần khắc kỉ, tiết
dục của Nho giáo nói chung và những quy phạm, bó buộc nghiệt ngã trong sáng tạo
nghệ thuật nói riêng, các nhà Thơ mới luôn phô bày bản ngã cá nhân một cách cố
tình và lộ liễu nhất trên trang giấy. Nhiều nhà nghiên cứu đã nói đến hiện tượng
sử dụng đại từ xưng hô ngôi thứ nhất xưng “tôi” (hoặc ta, anh... với ý nghĩa là
tôi) phổ biến trong Thơ mới. Từ góc độ nghiên cứu của mình, tôi muốn lưu ý thêm
một đặc điểm của cái tôi ấy là “thói quen” nhấn mạnh những biểu hiện cảm xúc tự
nhiên trong tình yêu lứa đôi. Do vậy, tình yêu không còn chỉ là những cấu trúc
tình cảm quá chung như tương tư, hận, sầu, tiếc, nhớ... trong ca dao hoặc
trong thơ cổ điển, mà đã được mở rộng với trăm hình muôn dạng phức tạp, như
chính thực tế nội tâm con người.
Hãy xem xét vấn đề này từ một tiêu điểm cụ thể hơn: cách
thức các nhà Thơ mới mô tả người tình của họ. Trong thơ trữ tình, đối tượng mô
tả luôn được tái hiện thông qua cái nhìn chủ quan hóa của chủ thể, do đó, việc
chúng ta “quan sát” đối tượng thực chất là một cách nhằm “nhận chân” chủ thể.
Tuy nhiên, nếu trong ca dao, những đối tượng này thường bị trừu tượng hóa, cái
còn lại chỉ là hình ảnh một “người tình chung” đầy mơ hồ, thì trong Thơ mới,
các thi sĩ không ngần ngại mô tả người tình của họ trong những đặc điểm tiểu sử,
danh tính khá cụ thể, xác thực. Rất nhiều bài thơ của Hàn Mặc Tử gắn liền với
tên các cô gái như Hoàng Cúc, Mộng Cầm, Ngọc Sương, Thương Thương... Những cái
tên Oanh, Nhi, Dung, chị Trúc... trở nên quen thuộc trong thơ Nguyễn Bính. Tình
yêu tan vỡ với cô gái tên Tố Vân (Kiều Thu) đã thành cảm hứng xuyên suốt trong
thơ Vũ Hoàng Chương v.v. Đặc điểm cũng như mức độ thân mật trong mối quan hệ của
những đôi tình nhân cũng là một khía cạnh được chú ý khai thác, mô tả. Vì vậy,
qua thơ, người đọc có thể lần ra dấu vết của những cuộc tình trong đời riêng
tác giả, chẳng hạn những mối tình đơn phương giữa Hàn Mặc Tử với Hoàng Cúc, Ngọc
Sương, Mộng Cầm, Mai Đình...; tình yêu dở dang giữa Vũ Hoàng Chương và cô gái
tên Tố Vân; tình yêu kiểu “trai lỡ phong vân gái lỡ tình” của Nguyễn Bính
với một cô gái tên Dung với những chi tiết hết sức đời thực, thậm chí sống sượng:
Lại còn câu chuyện buồn hơn cả/ Là chuyện con Dung đẻ tháng này v.v. Dĩ
nhiên, giữa thơ và đời luôn là một khoảng cách khúc xạ của sự sáng tạo, của những
hư cấu, thêm thắt. Nhiều mối tình có vẻ rất “hiện thực”, rất nồng cháy trong
thơ, kì thực chỉ là những mối “tình hờ” và phần lớn những bóng giai nhân kia chỉ
tồn tại trong... trí tưởng tượng của thi sĩ! Rất nhiều tài liệu chứng thực cho
điều này, chẳng hạn những tài liệu về cuộc đời Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Xuân Diệu
v.v. Nhưng việc các nhà Thơ mới đưa vào tác phẩm của họ nhiều chi tiết đời tư,
(hoặc cố tình “bịa” ra những chi tiết giống như thật, như từng đã xảy ra trong
đời họ), là không phải ngẫu nhiên: sự cá biệt hóa của tình huống, cảnh ngộ, số
phận..., tạo nên sự cá biệt hóa của tình cảm, cảm xúc. Nó mài sắc cảm xúc, cảm
giác và nhận thức, giúp nghệ sĩ thoát khỏi những định kiến có tính tiên nghiệm.
Tóm lại, với các nhà Thơ mới, những kinh nghiệm, trải nghiệm cá nhân trở thành
một thứ chất liệu tươi mới cho nghệ thuật và cần được triệt để khai thác.
Mô tả đối tượng trên nền vận động cảm
xúc tự nhiên của chủ thể là một “thói quen” của nhiều nhà Thơ mới và cũng là một
biểu hiện khác của “nguyên tắc” cá thể hóa. Trong thơ cổ điển, tình cảm, cảm
xúc cá nhân thường được tác giả bộc lộ một cách kín đáo, trang nhã: “Khi nói đến
người đẹp, người yêu, đến tình yêu lứa đôi, thì họ nói một cách kín đáo qua
nhân vật lịch sử hay qua cảnh trí thiên nhiên, để ngụ ý bóng gió. Như vậy, chúng
ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy họ nhân tả sen, mà nói đến tấm thân ngọc ngà của
người đẹp Tây Thi và Dương Quý Phi tắm nước hương sen...”[1]. Ngược lại, trong Thơ mới, đối
tượng mô tả thường được đặt trên nền cảm xúc đang vận động và cũng thường được cá
biệt hóa cao độ. Các nhà Thơ mới rất chú trọng tới việc thể hiện cảm xúc, suy
nghĩ cá nhân và không ngần ngại khi bộc lộ chúng một cách trực tiếp, “lộ liễu”
nhất. Ta hãy dừng lại ở ví dụ Tranh loã thể của Bích Khê:
Nàng
là tuyết hay da nàng điểm tuyết?
Nàng
là hương hay nhan sắc lên hương?
Mắt
ngời châu rung ánh sóng nghê thường;
Lệ
tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc
Đêm
u huyền ngủ mơ trên mái tóc
Vài
chút trăng say đọng ở làn môi
Hai
vú nàng! hai vú nàng! chao ôi!
Cho
tôi nút một dòng sâm ngọt lộng
Ôi
lồ lộ một toà hoa nghiêm động
Tôi
run run hãm lại cánh hồn si...
Ồ
hai tay rơi chén ngọc lưu ly
Ồ
hai chân nở màu sen ẻo lả
Cho
tôi nàng! cho tôi nàng! tất cả...
Trong những dòng thơ này, chân dung thiếu nữ hiện lên như
một cơ thể phập phồng sự sống. Nhờ vào những câu hỏi tu từ dồn dập như sự buột
thoát cảm xúc không thể kìm giữ. Nhờ vào cách gọi thẳng tên sự vật như nó vốn
thế (dù điều này có gây “sốc” với độc giả đi nữa!). Nhờ vào những lời cảm thán
đầy hân hoan chứa đựng sự kinh ngạc và niềm ngưỡng mộ sâu sắc của chủ thể trữ
tình: “chao ôi”, “ôi”,”ồ”... Từ góc nhìn của một người đọc hồn nhiên, có
thể nói, vẻ đẹp của Tranh loã thể đã gây một “chấn động” to lớn
trong tâm hồn thi sĩ, nhưng từ một góc nhìn sâu hơn, cần phải nhận thấy, thật
ra vẻ đẹp chấn động ấy chỉ có thể được tạo tác trong một cách nhìn nhận, thể hiện
mang đậm màu sắc chủ quan của tác giả. Với Bích Khê nói riêng, các nhà Thơ mới
nói chung, việc bộc bạch trực tiếp những cảm xúc, suy tư về đối tượng mô tả -
tình yêu, người tình, thiên nhiên v.v., là một hành động tự nhiên và cần thiết.
Và do vậy, hình tượng thơ, gắn liền với những ấn tượng tươi mới nẩy sinh “tức
thì” trên nền dòng chảy cảm xúc của chủ thể trữ tình, thường hiện lên một cách
hết sức cảm tính và sống động.
Trong quan niệm của Thơ mới, tình yêu là một thứ tình cảm
tự nhiên và đẹp đẽ của nhân loại, do đó, nó cần phải được thể hiện một cách đường
hoàng và mạnh mẽ. Đây chính là gốc rễ của hiện tượng mà người ta vẫn gọi là “sự
đa dạng”, “phong phú” trong tính chất, sắc thái hay các “cung bậc” tình yêu của
Thơ mới: buồn, vui, đau khổ, hy vọng, luyến tiếc, giận hờn, nhung nhớ, ghen
tuông...; có tình đầu lại có “tình già”; có tình yêu trong mộng nên thơ, lại có
tình yêu đời thực đầy chán chường v.v. Không chỉ như vậy. Một khi nguyên tắc cá
thể hóa được đề cao, sẽ dẫn đến việc xuất hiện trong thơ những biểu hiện cá
nhân cực đoan, “thái quá”, những vùng cảm xúc phóng túng, khuất tối của tâm hồn,
thậm chí, theo cách nói của Phan Cự Đệ, cả “những bờ bến xa lạ của cảm giác”,
“những khoái lạc bệnh tật ở những vùng đất hoang dại chưa được khai phá” [2]. Thực chất
đấy cũng chính là một biểu hiện trung thực của muôn chiều cảm xúc tình yêu cá
nhân, cá thể. Hàn Mặc Tử từng bộc bạch trong lời tựa Đau thương:
“Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng lệ, bằng hồn.
Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của Tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận hờn đến
gần đứt sự sống”. Bởi vậy, những biểu hiện táo tợn, cuồng nhiệt của tình cảm
trai gái - mà thơ cổ điển xem là “dâm tục”, “bất nhã”, bị lên án gay gắt trên
phương diện đạo đức - nay công khai hiện diện. Tình yêu không chỉ là một ý niệm
tinh thần trừu tượng mà còn là những ham muốn, đòi hỏi của thân xác, xác thịt.
Nó đi cùng với những khao khát hưởng thụ ái ân, khao khát được “sống toàn
thân và thức nhọn giác quan” trong những say sưa ôm, riết, thâu, say, đã đầy...
Do đó, những yêu thương điên dại, đau đớn của Hàn Mặc Tử, tâm sự hoài nghi cô độc
đầy cực đoan của Vũ Hoàng Chương, quan niệm gây sốc về cái “đẹp và dâm” của
Bích Khê hay ám ảnh thường xuyên, “kỳ dị” về giai nhân, cái chết trong thơ Đinh
Hùng, Chế Lan Viên..., tất cả đều có chỗ đứng của mình trong Thơ mới. Hiện tượng
này chỉ có thể xuất hiện trong thơ khi nguyên tắc cá thể hóa được đề cao và
nhìn rộng ra, ấy là khi những giá trị tinh thần, tình cảm của con người đã thực
sự được coi trọng. Điều này cho thấy, hóa ra, thế giới bên trong của cá nhân,
cá thể cũng có nhiều chuyện đáng nói và tình yêu cũng không phải chỉ là một thứ
tình cảm “tầm thường”, nhỏ bé như ai đó đã nghĩ.
Do sự chi phối của cái nhìn cá thể hóa, các nhà Thơ mới,
từ chỗ “tả thần” dần chuyển sang “tả thực”, coi trọng việc mô tả những “hình sắc
có thật” của thực tại, đề cao việc tìm kiếm cái đẹp trong cái thực và chất thơ
trong đời sống hàng ngày. Việc gia tăng yếu tố đời tư, các mối quan hệ gần gũi,
gắn đối tượng mô tả với những cảm xúc tươi mới, trực tiếp của chủ thể, việc “xử
lí lại” những motip tình yêu quen thuộc qua cái nhìn của “cái tôi”..., tất cả
thể hiện nỗ lực của các thi sĩ Thơ mới trên hành trình sáng tạo nhằm bứt phá khỏi
những công thức, điển phạm đã bị “xơ hóa”, mất đi hiệu quả nghệ thuật của thời
kì thơ trước đó.
Ta cũng có thể tìm thấy những biểu hiện của nguyên tắc cá
thể hóa trong ngôn ngữ thơ. Trong nhiều bài thơ tình của mình, các tác giả Thơ
mới không ngần ngại gia tăng các yếu tố tự sự, các chi tiết kể, tả, bất chấp
“phản ứng phụ” của chúng là làm tác phẩm trở nên dài loãng, thiếu hàm súc - điều
mà thơ cổ điển rất kị. Cùng với điều đó, nhu cầu “phơi trải”, “bộc bạch” ở mọi
cung bậc, trạng thái cảm xúc cá biệt, riêng tây cũng tạo áp lực phá tung khuôn
khổ những câu thơ luật Đường đều đặn quen thuộc của thơ cổ điển, tạo nên sự đa
dạng của các thể thơ như bảy chữ, tám chữ, thơ năm chữ, lục bát... Kết cấu văn
bản cũng phải thay đổi để đủ sức chuyển tải những nồng nàn, cuồng nhiệt hay não
nề, thê thiết... của tình cảm con người, do đó, thay cho sự đúc chữ, kiệm lời
trong thơ cổ điển, thơ tình trong Thơ mới nhiều khi sa vào tình trạng dài dòng,
kể lể... “Nhịp lòng” đã chi phối nhịp thơ, tạo nên những cách ngắt nhịp vô cùng
phong phú và linh hoạt; những hình thức câu đa dạng; những hình ảnh, từ ngữ diễn
tả mới, đầy cảm giác v.v.
Nhìn chung, nguyên tắc cá thể hóa bộc lộ khá rõ trong
cách xử lí đề tài tình yêu và đã tạo nên những thay đổi quan trọng trên phương
diện nghệ thuật của thơ tình thuộc Thơ mới. Trước hết, điều này bộc lộ một tinh
thần đổi mới mang tính dân chủ, nhân văn của các nhà Thơ mới đối với đề tài
tình yêu nam nữ - vốn bị xem là “tầm thường”, thấp kém trong văn học phong kiến.
Đồng thời, xuất phát từ quan niệm coi trọng cá nhân, coi trọng sự thành thực của
tâm hồn, quan niệm này đã giải phóng ngòi bút của nhà thơ khỏi những quy phạm,
húy kị trung đại, mở rộng và khai thác sâu vào những vỉa mạch tâm hồn, từ đó,
phát hiện ra những cấu trúc tình cảm mới, phong phú trong đời sống tinh thần của
con người hiện đại. Với quan niệm sáng tạo này, hệ đề tài, chủ đề về tình yêu
được mở rộng và một phần to lớn của hiện thực tâm hồn con người được chiếm
lĩnh, phơi mở. Điều đó cũng có nghĩa là gắn liền với sự mở rộng phạm vi chiếm
lĩnh hiện thực đời sống, thơ tình trong Thơ mới đã đạt đến một chất lượng thẩm
mĩ mới.
2. Đề cao tình yêu trong ý nghĩa hoà hợp tuyệt đối, lí tưởng
Tình yêu, trong cái nhìn khái quát hóa của triết học, tâm
lí học, thường được hình dung như là sự hoà hợp giữa những mặt đối lập: tâm hồn
và thân xác, lí tưởng và trần tục, tình yêu và tình dục... Không phải ngẫu
nhiên mà trong văn hóa phương Tây, tình yêu được hình tượng hóa bằng vị thần
Eros với hai bản chất: vừa là con của Aphrodite Pandemos, nữ thần của nhục dục
thô bạo, vừa là con của Aphrodite Ourania, nữ thần của tình yêu thanh khiết.
Còn trong văn hóa phương Đông, tình yêu được biểu trưng bằng hình chữ thập, biểu
tượng của cặp phạm trù phổ quát Âm - Dương và ở đấy, “tình yêu là sự tìm kiếm một
trung tâm hoà hợp cho phép thực hiện sự tổng hợp đầy năng động những tiềm lực của
nó”[3]. Tuy
nhiên, trong nhãn quan của các tác giả lãng mạn, tình yêu được ca ngợi và đề
cao chủ yếu trên phương diện tinh thần, cảm xúc. Với họ, một tình yêu thật sự
có ý nghĩa phải và chỉ khi nó đạt tới trạng thái hoà hợp tâm hồn “tuyệt đối”,
“lí tưởng” (chữ dùng của Vũ Hoàng Chương) giữa hai cá thể. Từ đây, tình yêu là
hiện thân cho những giá trị tinh thần vĩnh cửu, cho cái Đẹp và cho sự sống người
trong ý nghĩa cao cả nhất. Do vậy, đối với các nhà Thơ mới, việc nhấn mạnh tình
yêu trong ý nghĩa hoà hợp tinh thần tuyệt đối, lí tưởng cũng đã trở thành một
“nguyên tắc” quan trọng và nhất thiết phải được tuân thủ trong hoạt động sáng tạo.
Tuy nhiên, liệu việc đề cao giá trị tinh thần tuyệt đối, lí tưởng này có mâu
thuẫn với việc coi trọng những biểu hiện cảm xúc cá nhân, cá thể đã được tác giả
trình bày ở phần trên không? Theo tôi thì không, bởi chính tư tưởng này sẽ tạo
nên một sự bổ sung cần thiết và góp phần tạo nên “diện mạo” riêng của thơ tình
trong Thơ mới: đầy khao khát nhưng cũng đầy mơ mộng, vừa trần thế vừa rất thanh
cao, lí tưởng.
Trước hết, hãy xem xét biểu hiện của nguyên tắc nghệ thuật
trên (gọi ngắn gọn là nguyên tắc lí tưởng hóa) qua việc lựa chọn và giới
hạn phạm vi mô tả của các nhà Thơ mới. Trong sáng tác của họ, những từ ngữ như hồn,
tâm hồn, linh hồn, lòng, tấm lòng, lòng dạ v.v. xuất hiện với một tần số
khá cao và đó là một tín hiệu nghệ thuật rất đáng lưu ý. Nếu trong ca dao, sự lặp
lại phổ biến của danh từ lòng, hồn với những định ngữ kèm theo như lòng đau,
dạ sầu, ruột xót, dạ mềm... đã trở thành một thứ “công thức” và điều đó khiến
ý nghĩa của chúng bị thu hẹp, thậm chí trở nên trừu tượng thì ngược lại, với
các nhà Thơ mới, hình ảnh tấm lòng, tâm hồn luôn được chú ý “biệt hóa”. Đây là
một trong những nguyên nhân tạo nên sự xuất hiện của hàng loạt tổ hợp từ ngữ,
hình ảnh thơ mới mẻ, đầy cảm giác, chẳng hạn những chút hồn buồn trong lá rụng,
lòng anh như tự xé, hồn tươi đậm ngát hoa hương... Không dừng lại ở đó, tâm
hồn còn được hình tượng hóa thành khu vườn bốn phía mở với “Nước ngọt sẵn
tuôn, vườn đợi hái” (Xuân Diệu); được hình dung như một tủ áo mà trong đó,
“ý trong veo là lượt xếp từng đôi” (Huy Cận)... Nỗ lực sáng tạo này còn
bộc lộ trong cách miêu tả lòng, hồn như những sinh thể, có đời sống riêng tách
khỏi thân xác, trong những lòng, hồn ấy lại ẩn chứa những linh hồn sống động, lạ
lùng khác: Tôi ngồi dưới bến đợi nường Mơ/ Tiếng rú ban đêm rạn bóng mờ/ Tiếng
rú hồn tôi xô vỡ sóng/ Rung tầng không khí bạt vi lô (Hàn Mặc Tử)...
Có thể nói, cái
phương tiện phổ quát để nối kết, “ràng rịt” cái tôi trữ tình trong Thơ mới với
cuộc đời, với cõi thế, chính là tấm lòng, tâm hồn cá thể. Như một tất yếu
logic, tấm lòng, tâm hồn cũng là một “phương tiện”, một “ngôn ngữ” diễn tả đặc
biệt về tình yêu của Thơ mới. Hãy xem cách mà Xuân Diệu, nhà thơ từng được mệnh
danh là “mới nhất trong những nhà Thơ mới” (Hoài Thanh), mô tả về tình yêu
trong sáng tác của ông. Với tác giả này, việc trao gửi tình yêu cho ai đó được
nhìn nhận trong ý nghĩa là hành động trao gửi cuộc sống tinh thần: Tôi gửi
lòng tôi, tôi gửi hồn tôi (Tặng thơ); sự hoà hợp trong tình
yêu được hình dung như một lễ cưới tâm hồn: Lòng anh thôi đã cưới lòng em
(Thơ duyên); và khi tình yêu tan vỡ, cảm giác đó được so
sánh với hình ảnh tấm lòng tan nát: Em đã xé lòng non cùng giấy mới/ Mây đầy
trời hôm ấy phủ sơn khê (Tình thứ nhất)... Xuân Diệu chỉ là một
ví dụ. Tuy nhiên, qua sáng tác của đại diện tiêu biểu này, ta cũng có thể nhận
ra nét chung trong quan niệm và cách diễn tả của các nhà Thơ mới về tình yêu. Với
họ, tấm lòng, tâm hồn vừa là nội dung vừa là phương tiện để gắn kết cá nhân với
thế giới. Điều này giúp con người vượt thoát nỗi cô đơn như là định mệnh và tìm
thấy giá trị đích thực của cuộc sống. Một sự hoà hợp tâm hồn tuyệt đối, đó là
cách hình dung về tình yêu lí tưởng và là cái đích tìm kiếm, mơ ước của người
nghệ sĩ lãng mạn.
Đi cùng sự ca ngợi, đề cao tuyệt đối tình yêu tinh thần,
các nhà Thơ mới không quên tách rời và đối lập gay gắt nó với tình dục, với những
ham muốn thân xác. Mối quan hệ giữa tình yêu và tình dục được xác lập trong
hàng loạt tương quan đối nghịch: tinh thần và thể xác, thiêng liêng và phàm tục,
cao cả và thấp hèn, khát vọng và đời thực...Với các nhà Thơ mới, phần đẹp đẽ nhất
của tình yêu chỉ và phải nằm trong ý nghĩa hoà hợp tinh thần. Tình dục gắn liền
với tình yêu nhưng tình dục không phải tình yêu, thậm chí nó còn làm tình yêu
vong thân, tha hóa. Thật ra, không phải họ không nhận thấy mối quan hệ khăng
khít giữa tinh thần và thể xác, (ngược lại, chính thế hệ các nhà Thơ mới đã đem
lại một cái nhìn đầy táo bạo và mới mẻ về vẻ đẹp thể chất của con người, điều
này tôi sẽ nói thêm ở phần sau). Cũng không phải họ không ủng hộ sự gần gũi
thân xác trong quan hệ lứa đôi. Xuân Diệu, trong Xa cách, chẳng
phải đã kêu gọi người tình: Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực!/ Hãy trộn nhau
đôi mái tóc ngắn dài! đó sao? Càng không phải họ muốn đề xuất một cái nhìn
mang tính luân lí, đạo đức về tình yêu như thường gặp trong thơ cổ điển. Thực
chất, đặt ra ở đây là một vấn đề có tính nguyên tắc trong nhận thức thẩm mĩ của
các nhà Thơ mới. Khao khát sự hoà hợp tinh thần “tuyệt đối”, họ muốn nhìn tình
dục trong ý nghĩa hợp nhất biểu tượng hơn là những biểu hiện tính giao đơn thuần.
Với họ, về mặt này, tình dục hoàn toàn không phải là tình yêu, thậm chí, sự
dung tục của nó sẽ giết chết kiểu tình yêu lí tưởng mà họ tôn thờ. Xuân Diệu đã
chỉ ra lí do khiến ông phải kêu gọi người tình “gần thêm nữa”, đó là bởi
vì ông ý thức sâu sắc về hố thẳm không thể lấp đầy giữa “hai vũ trụ chứa đầy
bí mật” của tâm hồn những kẻ yêu nhau. Sự gắn bó, gần gũi về mặt thể xác, ở
đây, có thể hiểu như một “phương tiện” nhằm đạt tới sự hoà điệu, khăng khít về
mặt tinh thần. Trong Vô biên, một lần nữa, ông nhắc lại ý này: Nên
lúc môi ta kề miệng thắm/ Trời ơi ta muốn uống hồn em... Huy Cận dường như
cũng chung quan niệm với Xuân Diệu khi ông viết: A! Thân thể! Một cái bình tội
lỗi/ Đất sơ sinh đã hóa lại bùn lầy (Thân thể). Không
phải ngẫu nhiên mà cuộc gặp gỡ của đôi trai gái trong bài Áo trắng
nổi tiếng của ông được đặt giữa một không gian đầy ánh sáng và hương thơm. Bởi
trong cõi “tình mộng” ấy, sự hòa hợp cao nhất vẫn là trong tâm hồn, xúc cảm.
Nguyên tắc lí tưởng hóa còn biểu hiện khá rõ qua cách mô
tả thân thể con người. Trong thơ cổ điển, thân thể con người, đặc biệt là thân
thể nữ giới, gần như là một chủ đề “cấm kỵ”, bị xem là thấp kém, dung tục.
Nhưng đến thời Thơ mới, cùng với sự xuất hiện của một quan niệm tích cực về giá
trị cá nhân, vẻ đẹp thể chất của con người đã được đề cao một cách xứng đáng. Với
các nhà Thơ mới, thân thể thực sự là một thứ “ngôn ngữ” đặc biệt để chuyển tải
những khát vọng sống, khát vọng yêu đương trẻ trung, rạo rực và sôi nổi. Từ
đây, được chú ý, đề cao trong sáng tác của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Bích
Khê, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng v.v. không chỉ là con người - tinh thần mà là
con người - thể xác.
Tuy nhiên, cách mô tả thân xác trong Thơ mới luôn dừng lại
trên “ngưỡng” cảm xúc thẩm mĩ tao nhã, thanh sạch. Các bộ phận cơ thể người được
lựa chọn và thể hiện trong tác phẩm luôn tuân thủ nguyên tắc thi vị hóa, lí tưởng
hóa. Thơ Bích Khê đầy những những hình ảnh người đẹp khoả thân, loã thể, ngực
để trần, trần truồng, đùi non, vú nõn... Lấy cơ thể giai nhân làm đối tượng
mô tả, tác giả không ngần ngại đưa vào thơ mình cả những bộ phận có thể gây cảm
giác sống sượng, dung tục (đùi, vú, háng...). Nhưng ngay cả khi hoan hô
xác thịt chiếm ngôi thần, khi say sưa ca ngợi vẻ “đẹp và dâm” của nữ giới, Bích
Khê, cũng như các thi sĩ Thơ mới, luôn có xu hướng tinh thần hóa thể chất.
Trong Tranh loã thể, Bàn chân, Sắc đẹp, Hiện hình... thân xác
phái nữ thường được “tẩy trần” bằng các chất liệu thanh sạch và thi vị như ngọc
ngà, hoa hồng, trăng, sương, mây... Hình tượng nữ giới thường được nhà thơ mô tả
giữa một không gian thơm tho êm mát, đầy Nhạc, Hương và Thơ... Ở đó, họ vừa là
một thấu kính đặc biệt hội tụ vẻ đẹp tình yêu và cuộc sống, vừa chính là hiện
thân của một Nghệ thuật thuần túy và tượng trưng, đúng như khát vọng nghệ sĩ.
Hàn Mặc Tử, tác giả thường được nhắc đến với những bài thơ tình độc đáo, mang đậm
màu sắc nhục thể, là một ví dụ khác. Trong thơ ông, hình tượng nữ giới vừa hết
sức gợi tình, gợi cảm, nhưng đồng thời, vẫn đem lại cảm giác trong trẻo và thuần
khiết kì lạ. “Cảm xúc đối nghịch” này bắt nguồn từ những thao tác mô tả có vẻ
mâu thuẫn được sử dụng khá thường xuyên trong sáng tác của ông. Một mặt, nhà
thơ thường mô tả các cô gái một cách rất vật chất, cụ thể với nhiều chi tiết nhục
cảm khêu gợi, nhưng mặt khác, ông luôn có xu hướng tôn họ lên thành đối tượng
chiêm bái, ngưỡng vọng (chứ không phải là đối tượng chiếm đoạt hay hưởng thụ
thân xác). Điều này khiến hình tượng giai nhân trong thơ Hàn Mặc Tử vừa đầy vẻ
quyến rũ trần thế, vừa như một hư ảnh cao quý và siêu thực. Cảm hứng thơ Vũ
Hoàng Chương lại đi theo hướng khác. Trong cảm quan thi ca mang tính triết học
của tác giả này, xác thịt luôn đối lập với linh hồn như sự dung tục đối lập sự
thơ ngây, trong trắng. Sự gần gũi về mặt thân xác trong tình yêu gái trai chỉ
đem lại những chua chát, mệt mỏi và làm người ta ý thức sâu sắc hơn về nỗi cô
đơn của thân phận người:
Hai
xác thịt lẫn vào nhau mê mải
Chút
thơ ngây còn lại cũng vừa chôn
Khi
tỉnh dậy, bùn nhơ nơi Hạ giới
Đã
dâng lên ngập quá nửa linh hồn...
(Tối
tân hôn)
Như vậy, việc mô tả
thân xác thực chất là một cách thức để thi nhân trình bày những quan niệm nghệ
thuật riêng về tình yêu, người tình và rộng hơn là cuộc sống của họ. Cách mô tả
này không phải xuất phát từ nền tảng mĩ học mang nặng tư tưởng giáo huấn trong
thơ cổ điển, mà xuất phát từ trên quan điểm mĩ học của thơ lãng mạn. “Vật liệu”
thân xác trong tay mỗi nghệ sĩ, được xử lí theo những cách khác nhau nhưng đều
hướng đến cái đích là khẳng định vẻ đẹp tinh thần cao quý trong tình yêu con
người.
Tách rời và đối lập gay gắt tình dục với tình yêu, dĩ
nhiên các nhà Thơ mới cũng không thể xem hôn nhân là một kết thúc tốt đẹp, đáng
ao ước như trong thơ ca dân gian. Với họ, hôn nhân đồng nghĩa với sự tẻ nhạt và
tầm thường của đời sống. Cho nên trong Chùa Hương, còn gọi là Thiên
kí sự của một cô bé ngày xưa, ở phần kết, Nguyễn Nhược Pháp còn hóm hỉnh
ghi chú thêm: “Thiên kí sự đến đây là hết. Tôi tin rồi hai người lấy nhau, vì
không lấy được nhau thì hai người còn viết nhiều. Lấy nhau rồi là hết chuyện”.
Trong Thơ mới, có lẽ chỉ ở Nguyễn Bính, chuyện hôn nhân, cưới xin còn giữ được
vẻ đẹp đáng mơ ước của nó. Nhưng đấy cũng chỉ là vẻ đẹp của một hoài niệm xa
xôi và xưa cũ. Trong sự đối lập với thực tại khắc nghiệt, buồn nản, nó là phản
chiếu của một khát vọng hoà hợp lí tưởng của con người theo kiểu Nguyễn Bính, rất
gần với truyền thống. Thơ mới, ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng mĩ học lãng mạn
phương Tây, đặc biệt là quan niệm cái đẹp “phi mục đích”, “phi vụ lợi” của các
nhà Thi sơn, cho rằng, không gì chán ngắt hơn một tình yêu bền vững, chung thuỷ:
Tình chỉ đẹp khi còn dang dở (Hồ Dzếnh). Do đó, motip tình yêu trong mộng
với các biến thể của nó như tình yêu ban đầu, tình yêu thoáng chốc hay tình yêu
hoài niệm, tình yêu huyền sử... trở nên phổ biến. Đấy là thứ tình cảm, được lọc
qua tấm màn tưởng tượng, mơ mộng và cả sự tiếc nuối, luôn đẹp một vẻ thanh khiết,
mong manh và luôn gợi niềm khao khát, ngưỡng mộ của con người. Đồng thời, kiểu
tình yêu tự do, tình yêu ngoài hôn nhân, tình yêu giang hồ kĩ nữ... cũng là những
motip chủ đề ưa thích của Thơ mới. Nó vượt ra ngoài những ràng buộc luân lí, ngắn
ngủi dễ tàn, không chút tính toán, như “phấn thông vàng” được gió gieo rắc đi bốn
phương, do đó mà đôi khi có được một vẻ đẹp phóng túng, nên thơ, đúng như... “sở
nguyện” thi sĩ!
Gắn liền với nguyên tắc sáng tạo này là hệ thống phương
thức, phương tiện mô tả, thể hiện theo hướng lí tưởng hóa, một kiểu khái quát
hóa nghệ thuật, thường nhấn mạnh đến mức tối đa các giá trị tích cực hoặc tiêu
cực của đối tượng mô tả và nghiêng về đề cao các đối tượng tích cực, biến chúng
thành mẫu mực, lí tưởng. Các tác giả Thơ mới sử dụng nhiều thủ pháp mô tả để
tôn lên vẻ đẹp tuyệt đối của tình yêu và con người, chẳng hạn, thủ pháp gián
cách hóa, mộng hóa, phóng đại, tương phản v.v. Giọng điệu chủ đạo trong bộ phận
thơ này là ngợi ca, tụng ca: ngợi ca tình yêu, ngợi ca người tình... Ngay cả giọng
điệu ảo não, buồn thương khi nói đến tình yêu trong Thơ mới, xét đến cùng, cũng
là biểu hiện khác của nhãn quan lí tưởng hóa: một mặt, khát vọng của các nhà
lãng mạn chủ nghĩa là luôn muốn hướng đến tình yêu như một hiện tượng “phi thường”,
đẹp đẽ, vượt trên thực tế đời sống, nhưng mặt khác, ý thức tỉnh táo lại cho họ
thấy không dễ gì vượt thoát khỏi những giới hạn của một tình yêu trần tục, bình
thường (mà với họ, điều này thường bị đồng nhất với sự tầm thường).
Đằng sau cách mô tả về kiểu tình yêu “thanh cao”, “thuần
khiết” này là niềm tin vào giá trị và sức mạnh của tình yêu, mà thực chất cũng
là niềm tin vào sức mạnh và giá trị cá nhân của thời đại Thơ mới. Do vậy, khao
khát tình yêu cũng chính là khao khát sự “vô biên và tuyệt đích” (Xuân
Diệu), “Toàn hương và Tận mĩ” (Vũ Hoàng Chương), cái Đẹp “thuần túy
và tượng trưng” (Bích Khê), “hình tượng của linh hồn thanh khiết”
(Hàn Mặc Tử) v.v. Cảm quan nghệ thuật này thể hiện rất rõ trong Thơ mới, đặc biệt
trong những sáng tác thuộc thời kì đầu của phong trào. Tuy nhiên, trong một môi
trường văn hóa “hậu lãng mạn”, khi ý thức nhìn thẳng vào những “méo mó”, bất toàn
của con người và đời sống trở nên mạnh mẽ; khi nhãn quan “giải thiêng” trở nên
phổ biến trong trạng thái tinh thần xã hội, - hoặc nói theo cách của nhà mĩ học
Ý Umberto Eco, “trong một thời đại mà sự ngây thơ đã đánh mất” - và khi tư duy
nghệ thuật trở nên đa dạng và phức tạp hơn, cách nghĩ, cách viết về tình yêu
cũng sẽ thay đổi mạnh mẽ. Trong quan niệm của nhiều tác giả trẻ đương đại, tình
yêu luôn gắn liền với tình dục, thậm chí họ còn đồng nhất tình yêu với tình dục,
với bản năng và cảm giác khoái lạc thân xác. Tình dục được xem như “một phần tất
yếu của cuộc sống”, nó còn thực hơn là chính tình yêu, do vậy, không cần thiết
phải né tránh hoặc thi vị hóa khi nói về nó. Những thay đổi trong nhận thức về
đối tượng mô tả tất yếu sẽ kéo theo những thay đổi trong hình thức mô tả: ngôn
ngữ thơ bị tước bỏ hầu hết những ẩn dụ “thi vị”, “ngọt ngào”; những bộ phận kín
trên cơ thể được gọi tên một cách “thẳng tuột”; hành vi tính giao được mô tả một
cách sống sượng, trần trụi v.v.
3. Nhấn mạnh sự tồn tại độc lập của tình yêu trong tư cách khách thể
Theo tôi, có thể xem việc nhấn mạnh sự tồn tại độc lập của
tình yêu trong tư cách khách thể cũng là một nguyên tắc sáng tạo đáng chú ý
trong bộ phận thơ tình thuộc Thơ mới. Với nguyên tắc này (gọi ngắn gọn là
nguyên tắc khách thể hóa), tình yêu được nhấn mạnh trước hết trong tư
cách là khách thể mô tả, trong sự phân biệt, “đối lập” với chủ thể - tác giả.
Dĩ nhiên, trên thực tế, những cảm xúc tình yêu không bao giờ tồn tại một cách độc
lập, siêu hình cũng như biểu hiện của chúng không bao giờ tách rời những trạng
thái tinh thần, tình cảm của cá nhân, cá thể. Vì vậy, cần phải thấy rằng, việc
các nhà Thơ mới cố gắng “trừu xuất” tình yêu ra khỏi đời sống nội tâm của chính
họ (và của con người nói chung), thực chất là những thao tác nghệ thuật độc
đáo, có chủ ý và dù đấy chỉ là một sự chia tách đầy ước lệ thì nó cũng phản ánh
rất rõ cái “tham vọng” chiếm lĩnh tình yêu như một đối tượng thẩm mĩ và trong một
diện mạo chân thực, trọn vẹn nhất. Nhìn rộng ra, quan niệm về tình yêu của
tôi như một cái khác tôi, nằm ngoài tôi, thực chất cũng là một “phản
đề” nghệ thuật, nhằm để con người nhận thức thấu triệt hơn nữa về cái tôi, cái
thế giới bên trong tôi ấy. Quan niệm này chịu ảnh hưởng đậm nét của kiểu tư duy
duy lí phương Tây, vốn coi trọng sự phân tích và ưa tìm hiểu sự việc, hiện tượng
trong sự rành rõ, minh xác. Tóm lại, khi nhìn tâm hồn mình bằng con mắt “kẻ lạ”,
nhà thơ có thể phát hiện ra muôn vàn cung bậc tình cảm, cảm xúc tinh vi, mãnh
liệt, phong phú trong nội tâm con người và cùng với các phương tiện thi ca,
tình yêu sẽ thoát ra khỏi những đặc tính tiên nghiệm để khởi sắc với nhiều biểu
hiện sinh động, tươi mới. Cũng từ đây, hiện tượng tâm lí - tình cảm này đã thực
sự trở thành một đối tượng chiếm lĩnh thẩm mĩ của Thơ mới.
Quan niệm về tình yêu nói trên có lẽ chưa bao giờ xuất hiện
trong thơ cổ điển. Trong những tác phẩm như Văn tế Trương Quỳnh Như
của Phạm Thái, Ai tư vãn của Lê Ngọc Hân, Khóc Bằng phi
của Tự Đức..., tình yêu không phải là đối tượng để bàn luận, lí giải một cách
siêu hình, càng không phải là chuyện được đưa ra để “làm thơ”, “làm nghệ thuật”.
Nhìn chung trong thời trung đại, tình yêu, như một trạng thái tình cảm cá nhân,
thường phải “ẩn thân” trong những tình cảm “cao quý”, phù hợp với đạo đức, luân
lí phong kiến như nghĩa quân - thần, tình phu - phụ... và với tư cách một đề
tài văn học, nó luôn bị toả chiết, kìm hãm bởi một hệ thống quy phạm ngặt
nghèo.
Các nhà Thơ mới thì khác. Tình yêu, trong ý thức của họ,
trước hết là một hiện tượng tinh thần đặc biệt: vừa là chuyện của mỗi cá nhân,
vừa là một vấn đề siêu cá nhân, cá thể; vừa là chủ quan, vừa là khách quan; vừa
phụ thuộc, vừa độc lập... Nhà thơ không chỉ làm việc giãi bày những tâm sự cá
nhân, riêng tư, anh ta còn phải biết cách trình bày cái hiện thực tâm trạng ấy
qua một hình thức nghệ thuật độc đáo nhất, nhằm tạo ra những ấn tượng, khoái cảm
thẩm mĩ cao nhất cho độc giả. Một mặt, với quan niệm này, nhà thơ có được một sự
tỉnh táo và ý thức “phân thân” cần thiết để khi nhập sâu vào đối tượng vẫn
không “chết chìm” trong đáy bể cảm xúc “tê mê và rũ liệt” của tình ái. Mặt
khác, quan niệm này giải thích cho thái độ đầy tích cực, chủ động của họ trong
việc khám phá, chiếm lĩnh tình yêu như một đối tượng nghệ thuật.
Việc nhấn mạnh sự tồn tại độc lập của tình yêu trong tư
cách khách thể mô tả đã mở đường cho những hướng tìm tòi và sáng tạo mới về đề
tài này. Trước hết, nó thể hiện trong cảm hứng “luận đề hóa” tình yêu trong Thơ
mới. Điều này, xét đến cùng, xuất phát từ một nhu cầu tinh thần sâu xa của nhân
loại nhằm truy tầm cái “bản lai diện mục” đích thực của đời sống nhân sinh: Cuộc
sống là gì? Hạnh phúc là gì?... Đó là những “câu hỏi siêu hình” luôn đặt ra trước
con người khi anh ta tự ý thức như một cá nhân, cá thể. Thực chất, với việc tìm
cách trả lời câu hỏi: tình yêu là gì?, con người đang nỗ lực tìm kiếm ý nghĩa của
cuộc sống trong một biểu hiện tập trung nhất của nó.
Các tác giả Thơ mới thường trình bày theo hai hình thức
luận đề. Luận đề trực tiếp là cách nhà thơ trình bày những hiểu biết, nhận thức
về đối tượng theo lối nói thẳng, thông qua những định nghĩa hoặc những lập luận
mang tính logic, chặt chẽ (dĩ nhiên, đấy là những “định nghĩa”, “lập luận” của
thơ ca, theo kiểu của thơ ca). Ngược lại, hình thức luận đề gián tiếp lại chú
trọng lối trình bày vấn đề thông qua các hình ảnh - biểu tượng. Nhà thơ lùi lại
sau, đẩy các hình ảnh - biểu tượng lên phía trước và để chúng “nói” với độc giả
bằng thứ ngôn ngữ tự thân. Như “mật mã của một bí ẩn” đầy lung linh và mơ hồ,
chúng đòi hỏi người đọc phải tự biết khám phá và cảm nhận. Dĩ nhiên, sự phân
chia này cũng chỉ mang tính tương đối. Vả chăng, đấy là những hình thức luận đề
của thơ ca, chúng đều sử dụng ngôn ngữ hình tượng và đều hướng tới mục đích cao
nhất là trữ tình. Bởi vậy, trong nhiều trường hợp thực tế, những hình thức luận
đề này cùng song song tồn tại, có khi chúng còn thâm nhập vào nhau, khi những
luận đề trực tiếp hướng tới một sự vật, sự việc cụ thể một cách trọn vẹn, hoàn
chỉnh, khi ấy, những liên tưởng, tưởng tượng sẽ mở đường cho sự xuất hiện của
những biểu tượng giàu sức gợi.
Cùng với cảm hứng “luận đề hóa” tình yêu, chưa bao giờ những
từ ngữ như yêu, yêu đương, tình yêu, tình ái, ái ân... và những “định nghĩa” bằng
thơ về thứ tình cảm này lại xuất hiện nhiều đến thế. Hình thức định nghĩa khá
đa dạng: có thể bằng một câu thơ, một khổ, một đoạn thơ hoặc bằng một bài thơ
hoàn chỉnh; có thể là một sự khẳng định “như đinh đóng cột” về tình yêu, chẳng
hạn: Yêu là chết ở trong lòng một ít (Xuân Diệu), nhưng cũng có khi lại
là một lời thú nhận bất lực về nó - bản thân điều này cũng là một cách cắt
nghĩa: Yêu là khó nói cho xuôi/ Bởi ai hiểu được sao trời lại xanh? (Hồ
Dzếnh)... Thực chất việc định danh đối tượng không ngoài mục đích nhằm nhận thức
sâu hơn về đối tượng, vì vậy, sự định danh này luôn đi kèm với sự định tính, định
lượng và bản thân điều đó cũng cho thấy khá rõ thái độ “biệt nhãn” của thời đại
Thơ mới đối với đề tài tình yêu lứa đôi.
Nhìn chung, cảm hứng luận đề chi phối mạnh mẽ đến các
phương diện hình thức thơ tình trong Thơ mới, tiêu biểu là phương diện kết cấu.
Trong luận án Kết cấu thơ trữ tình (nhìn từ góc độ loại hình),
Phan Huy Dũng đã mô tả đặc điểm kết cấu hình tượng của mảng thơ luận đề trực tiếp
trong Thơ mới (mà ông gọi là “mảng thơ trực tiếp trình bày một quan niệm, một
tư tưởng”) một cách hết sức sáng rõ. Từ những phân tích kĩ lưỡng, hệ thống, nhà
nghiên cứu này khẳng định, đặc điểm kết cấu của mảng thơ này cho người đọc “nhận
ra rất rõ cái tôi duy lí (một yếu tố cấu thành cái tôi trữ tình) của Thơ mới”[4]. Cảm hứng
luận đề cũng tạo nên những kiểu dùng từ, đặt câu đầy táo bạo, mới mẻ. Nhiều nhà
nghiên cứu đã nhận xét trong Thơ mới, kiểu câu định nghĩa, câu hỏi, câu cảm
thán... rất phổ biến. Hình thức câu thơ được giãn rộng và trở nên linh hoạt với
sự gia tăng số lượng các đại từ xưng hô, chỉ định, các liên từ, số từ...
Như vậy, có thể thấy nhu cầu nhận thức thấu triệt bản chất
đối tượng đã làm nẩy sinh cảm hứng mô tả - lí giải trong thơ và đến lượt nó, cảm
hứng thơ này đã chi phối đến nhiều mặt của hình thức thơ. Nhưng “gọi hẳn tên một
sự vật là huỷ bỏ ba phần tư sức cảm thụ của bài thơ” (Mallarmé). Để phục vụ luận
đề, những biểu hiện cảm tính, cụ thể của hình tượng thơ không tránh khỏi bị giản
lược, rút tỉa, do đó, trong một số trường hợp, mất đi tính sinh động, gợi cảm cần
thiết.
Xây dựng những hình ảnh - biểu tượng mới về tình yêu cũng
là một hướng đi đem lại hiệu quả của nhiều nhà Thơ mới và cũng có thể xem là một
biểu hiện khác của nguyên tắc khách thể hóa. Thay vì cách đặt vấn đề trực tiếp,
nhiều thi sĩ chọn cách tổ chức văn bản thơ xoay quanh trục một hình ảnh - biểu
tượng, chẳng hạn: Thơ duyên (Xuân Diệu), Áo trắng
(Huy Cận), Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử), Cánh buồm trắng (Vũ
Hoàng Chương), Màu thời gian (Đoàn Phú Tứ)... Cũng như hình thức
luận đề trực tiếp, nó xuất phát từ “tham vọng” của nhà thơ nhằm cắt nghĩa tình
yêu như một hiện tượng đời sống khách quan, độc lập.
Ta hãy dừng lại ở một ví dụ - Đây thôn Vĩ Dạ
của Hàn Mặc Tử. Trong ba khổ thơ ngắn gọn, Hàn Mặc Tử đã tái hiện hình ảnh một
thôn Vĩ đầy mê đắm với những hình ảnh vừa như thoáng hiện ra từ trong cõi nhớ,
lại vừa như một nỗi ám ảnh rất xa xưa trong tiềm thức. Nắng hàng cau/ nắng mới
lên/ lá trúc che ngang/ mặt chữ điền - đấy là một tập hợp hình ảnh về những
khu vườn thơ mộng nơi thôn Vĩ. Nó cụ thể hóa cái ấn tượng “mướt quá, xanh
như ngọc” của khung cảnh thiên nhiên nơi ấy. Nhưng khi hình tượng khu vườn
càng được chi tiết hóa, càng trở nên sống động và gợi cảm, càng đẹp một cách ám
ảnh, nó càng khêu gợi trí tưởng tượng của người đọc, càng khiến người ta nghĩ đến
một cái gì đó sâu và xa hơn cái ý nghĩa hiển lộ ở bề mặt những hình ảnh kia.
Chính điều này sẽ làm cho bức tranh thiên nhiên trong tác phẩm mờ đi ý nghĩa
sao chép thực dụng, mở ra những ý nghĩa mới rộng lớn hơn và cũng khó nắm bắt
hơn của hình tượng. Toàn bộ những hình ảnh mô tả cụ thể, riêng lẻ trong bài thơ
đều xoay quanh cái trục chính thôn Vĩ, nhằm cắt nghĩa và bổ sung
cho hệ biểu tượng ấy ngày một đầy đặn hơn, đồng thời cũng phức tạp hơn. Vừa là
hình bóng của quá khứ êm đềm, vừa là sự phản chiếu của một hiện tại đau xót, và
đồng thời còn thức dậy một tương lai với bao nỗi hoang mang thắc thỏm, Đây
thôn Vĩ Dạ, nói rộng hơn, chính là biểu tượng cho thế giới tâm hồn Hàn
Mặc Tử, khi cận kề bên bờ vực cái chết, vẫn không ngừng hướng về cuộc đời, về
tình yêu, trong tột cùng đau thương và hy vọng.
Tuy nhiên, điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây không phải là
cái giá trị nội dung cụ thể của hệ biểu tượng trên mà là giá trị của hình thức
thể hiện, giá trị của “cách nói”. Để đi đến những ý nghĩa rộng lớn và trừu tượng
ấy, thi sĩ luôn phát xuất từ nhiều hình ảnh - biểu tượng cụ thể, để chúng “nói”
với độc giả bằng thứ ngôn ngữ tự thân. “Ma lực” của những biểu tượng thơ nằm ở
chỗ chúng nhập nhoà giữa ranh giới chuyển vượt của cái đã biết và cái còn bị
che giấu trong ý nghĩa mà chúng chuyển tải. Chính vì vậy, những nhận thức về
tình yêu, về cuộc sống được mở rộng, đồng thời gợi ra những xúc cảm đầy bí ẩn
và nên thơ, vốn là yếu tố tạo nên vẻ đẹp trường cửu của thơ ca và tình yêu đôi
lứa. Với sức mạnh của biểu tượng, tình yêu trong hình dung của con người, vốn
dĩ là một gì rất mơ hồ và khó nắm bắt trong cõi mù mờ nội tâm, trong chốt lát,
bỗng được phơi mở và thâu nhận một cách “tức thì”, trọn vẹn, trong những biểu
hiện vừa cụ thể, cảm tính, vừa giàu sức khái quát. Không phải như những khái
quát thuần lí, biểu tượng đem lại cho người đọc cảm giác “đốn ngộ” trong khoảng
khắc, rằng tình yêu đúng là thế, tâm hồn con người đúng là thế, như những gì mà
sự hiện diện của biểu tượng đã gợi ra.
Nguyên tắc sáng tạo này còn bộc lộ rõ
trong nỗ lực của các nhà thơ nhằm mô tả tình yêu như một “sinh thể” sống động
và trong những biểu hiện cảm tính nhất của nó. Nếu các tác giả cổ điển thường
nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong những thuộc tính, quy luật mang tính phổ
quát, “vĩnh viễn”, thì ngược lại, các nhà Thơ mới rất chú ý đến những cảm xúc
mơ hồ, không rõ hình trạng hay những ấn tượng, cảm giác chỉ xảy ra trong khoảng
khắc, tươi tắn và mong manh, dễ dàng tan biến - những cảm xúc, cảm giác trong
thì hiện tại. Đấy là những trạng thái, rung động được cá thể hóa cao độ và ở
đó, nói như Verlaine, mọi thứ “vừa chính xác lại vừa mơ hồ”...
Để đạt đến cái đích ấy, một mặt, các nhà Thơ mới không ngần
ngại “dò xét cái thế giới bên trong, lượm lặt từng sợi tơ mềm yếu, từng mảnh nhớ
thương, từng vụn sầu tủi” và bằng sự nhạy bén trực giác, họ đã “nghe thấu sự mơ
hồ, như đã thạo dò la những điều tinh tế”. Mặt khác, điều này cũng buộc họ phải
tìm kiếm, sáng tạo nhiều phương thức, thủ pháp mô tả mới, nhằm thể hiện những
trạng thái nội tâm ấy một cách sát đúng nhất. Có thể thấy rõ điều đó trong thơ
của Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Bích Khê v.v. Đặc biệt, qua cách diễn tả
của Hàn Mặc Tử, ngay cả những gì trừu tượng, mơ hồ nhất trong tâm linh con người
cũng trở thành những khối hình, màu sắc và sức nặng. Linh hồn, thân xác, máu
huyết cũng trở thành những sinh thể, chúng gào khóc, rên, van, rú hét, cười
sằng sặc, loạn trí... Tình yêu thường được thi sĩ hình dung như sự gặp gỡ của
những linh hồn, nhưng là những linh hồn đã được “thân xác hóa”, do vậy, cũng đầy
những cảm giác vật chất: Anh đã thoát hồn anh ngoài xác thịt/ Để chập chờn
trong ánh sáng mông lung/ Để tìm em đưa hai tay ràng rịt/ Mảnh tình thiêng ngả
ngớn giữa không trung... (Sáng láng).Với nghệ thuật diễn tả ấy,
nhà thơ có thêm điều kiện để đối tượng hóa lòng mình và bởi vậy, những cảm giác
mông lung, chập chờn bất định trong tình yêu đã được thơ ca “cố định hóa”,
“vĩnh viễn hóa”.
Trong Thơ mới, tình yêu không chỉ được nắm bắt và mô tả
như những khoảng khắc tâm trạng mà còn được các thi sĩ tái hiện như một quá
trình cảm xúc. Có thể nhận thấy điều này trong nhiều tác phẩm, ví dụ Bao
la sầu, Thơ sầu rụng (Lưu Trọng Lư); Ngẩn ngơ, Thở
than, Tương tư chiều(Xuân Diệu); Đà Lạt trăng mờ, Sáng trăng, Những
giọt lệ (Hàn Mặc Tử); Vạn lí tình, Nhớ hờ, Ngậm ngùi (Huy
Cận)... Thông thường bài thơ được gợi hứng từ một hình ảnh, sự vật, sự việc nhất
định (chẳng hạn sự xa cách, hình ảnh người tình, một khung cảnh gợi nhớ
nhung...) và cảm xúc thơ nương theo đó mà phát triển. Hình thức mô tả này đem lại
cảm giác dường như tác giả đã tái hiện “nguyên trạng” những trạng thái tình cảm
của con người. Thật ra, sự “tự nhiên” ấy không chỉ là kết quả của một sự giãi
bày “thành thực”, “hết mình” như người ta vẫn thường nói về thơ trữ tình mà còn
là biểu hiện khá rõ của một ý thức sáng tạo. Chính các tác giả đã muốn tạo ra
cái ấn tượng tự nhiên, “như thực” ấy, và để đạt tới mục đích, không thể chỉ
trông cậy vào sự hồn nhiên của cảm xúc mà còn cần đến sự tỉnh táo của lí trí. Một
mặt, họ không ngần ngại “sống đến cùng” với những cảm xúc, cảm giác của bản
thân, nhưng mặt khác, bằng các giác quan tâm hồn tinh nhạy và óc phân tích ảnh
hưởng của tư duy phương Tây, họ không ngừng quan sát, “theo dõi” mọi diễn biến
nội tâm, nhằm tái hiện chúng một cách cụ thể và sát đúng nhất. Đi giữa đường
thơm của Huy Cận là một ví dụ. Cùng người tình đi dạo nhưng óc quan sát
của cái tôi trữ tình trong bài thơ luôn không ngừng hoạt động. Bất kì chi tiết
nào rơi vào “tầm ngắm” của anh ta, đều được ngấm ngầm phân tích, soi xét. Tác
giả đã tiến hành một cuộc phân thân ý thức khá triệt để: một mặt, cái tôi -
tình nhân cứ tiếp tục biểu hiện những tình cảm, cảm xúc tự nhiên, hồn nhiên của
anh ta; còn mặt khác, cái tôi - thi nhân cứ lặng lẽ quan sát và không ngừng suy
ngẫm về những biểu hiện đó.
Sự phân thân trong ý thức mô tả này không hề phá vỡ không
khí cảm xúc “mê hoặc” vốn rất đặc trưng cho loại tác phẩm trữ tình, ngược lại,
nó tạo ra hiện tượng phức hợp giọng điệu sinh động, giải phóng tác phẩm khỏi sự
giãi bày một chiều đơn điệu. Điều này dẫn đến sự xuất hiện khá phổ biến của những
bài thơ trữ tình giàu yếu tố tự sự như Bóng mây chiều (Thế Lữ), Mưa
xuân (Nguyễn Bính), Hai sắc hoa Tigôn (T.T. Kh)... hay những
bài thơ trữ tình mang hình thức kịch như Anh Nga, Huyền Trân công chúa (Phạm
Huy Thông), Duyên kỳ ngộ, Quần tiên hội(Hàn Mặc Tử)... Có thể
nói, hình thức kể chuyện (và hình thức “kịch hóa”) trong thơ trữ tình là một
cách để các nhà Thơ mới khách thể hóa lòng mình và từ câu chuyện của mình, soi
chiếu vào bao tâm sự, cảnh ngộ đã xảy ra trong cuộc sống và thời đại của họ.
Tóm lại, Thơ mới luôn chú ý mô tả
tiếng nói nội tâm như một khách thể, do đó, muôn cung bậc, trạng thái, cảm xúc
giàu có, phức tạp của tình yêu đã được khai thác và trình bày trong thơ như một
“hiện thực thứ hai” đầy ấn tượng. Tuy nhiên, trong nghệ thuật, việc mô tả khách
thể không bao giờ tách rời nhận thức chủ quan của chủ thể. Khi nghệ sĩ khách thể
hóa tình yêu, thực chất anh ta đang khách thể hóa đời sống tinh thần bản thân
thành tác phẩm nghệ thuật. Do đó, đồng thời với tình yêu, cái tôi nhà thơ cũng
sẽ trở thành đối tượng mô tả, chiếm lĩnh của thi ca. Trên thực tế, tình yêu
không chỉ được mô tả, tái hiện như những ý niệm trừu tượng, mà luôn được cá thể
hóa cao độ qua lăng kính tâm hồn mỗi tác giả. Điều này là hiển nhiên: chẳng phải
tình yêu luôn là chuyện riêng tư của mỗi cá nhân và cách biểu hiện của từng con
người trong địa hạt ấy luôn là “không giống ai” đó sao? Cho nên cùng với sự khắc
hoạ ngày càng đầy đặn hơn về diện mạo tình yêu, thế giới tinh thần, cảm xúc của
thi nhân cũng từng bước được hé lộ, phơi bầy trong nhiều vẻ đắm say, đa dạng.
Như vậy, có thể thấy “nguyên tắc” khách thể hóa
không hề mâu thuẫn với hai “nguyên tắc” cá thể hóa và lí tưởng hóa
ở trên. Ngược lại, chính việc tuân thủ nguyên tắc khách thể hóa càng giúp nhà
thơ có thêm điều kiện và cơ hội để khai thác sâu thêm những cảm xúc cá thể và
nhìn từ một góc độ nhất định, việc xem tình yêu như một đối tượng mô tả độc lập,
để đi sâu khai thác mọi sắc thái, vẻ đẹp của nó, không chỉ thể hiện nỗ lực nhận
thức của các tác giả, mà còn cho thấy rõ cái nhìn hết sức coi trọng, đề cao của
thời đại Thơ mới đối với tình yêu, một biểu hiện cụ thể nhất của nhãn quan lí
tưởng hóa trong thời đại Thơ mới. Trên thực tế, những nguyên tắc thẩm mĩ này
luôn tồn tại trong một mối quan hệ phối thuộc hết sức chặt chẽ.
Vinh, 2007
[1] Đặng Thị Hảo (2002),
Thơ tình Việt Nam thế kỉ X - nửa đầu thế kỉ XIX, Luận án tiến sĩ Ngữ
văn, Viện Văn học, H., tr. 75.
[2] Phan Cự Đệ (1982), Phong trào Thơ mới (1932
- 1945), in lần thứ hai, Nxb Khoa học Xã hội, H., tr. 58.
[3] Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (1997), Từ
điển biểu tượng văn hóa thế giới, nhóm dịch Phạm Vĩnh Cư, Nxb Đà Nẵng, Trường
Viết văn Nguyễn Du, H., tr. 927.
[4] Phan Huy Dũng (1999), Kết cấu thơ trữ tình (nhìn
từ góc độ loại hình), Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội, tr. 140-150.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét