NGƯỜI ĐÀN BÀ "DẠI YÊU"
Lê Hồ Quang
Trong một cái nhìn có tính “tổng kết”, sự “dại yêu” của người đàn - bà - thơ Đoàn Thị Lam Luyến được định danh qua một loạt tính từ: dại dột, cả tin, ngộ nhận, yếu mềm, say, dại, điên... Tác giả giãi bày rất thực thà về sự cả tin, khờ khạo của người - đàn - bà - dại - yêu này: Ngoài bốn chục chưa khỏi điều non nớt/ cả tin nghe, cả tin nói, cả tin cười (Châm khói); Chị cũng nhận thấy sự mơ mộng, đa cảm, thiếu thực tế ở người đàn bà này như một điểm yếu khó khắc phục: Quen sống với mộng mơ/ Tim tôi đầy vọng ước/ Chẳng yêu cây trên bờ/ Chỉ say tình dưới nước (Điểm hẹn)... Dĩ nhiên, có lúc chị cũng tự biện luận: Em không là thánh thần/ Mới nhiều phen nông nổi/ Khi đã dấn thân yêu/ Biết đâu mà lọc lõi (Em không là thánh thần); nhưng rốt cục, nhà thơ vẫn thấy sự “dại dột” ấy như là một bản tính ăn vào máu mình, khó lòng cải đổi: Bếp thoắt tro, thoắt lửa/ Biển thoắt đầy thoắt vơi/ Lại dễ dàng thổn thức/ Lại sẵn sàng khơi vơi (Tuổi bốn mươi)...
Khao khát tình yêu, đắm đuối trong những ảo tưởng tự tô vẽ,
ở người đàn bà này, hình ảnh người tình luôn được “thiêng hóa”: Anh đến như
trời sai đến/ Em không giữ nổi phép màu/ Như có bàn tay định mệnh/ Bàng hoàng
ánh mắt giao nhau (Lời anh trên biển)... Nồng nhiệt và
tự tin đến ngây thơ, bất chấp những cảnh ngộ thực tế, người đàn bà ấy sẵn sàng
cao giọng “thách thức” với mọi thử thách khắc nghiệt nhất của đời sống: Gian
khổ hay cách trở/ Thương nhau thêm bội phần/ Và với em khi đó/ Tình yêu là phép
nhân (Phép nhân)... Và với tất cả sự đa cảm và vụng dại, chị
sẵn sàng “thế chấp” tất cả niềm tin vào tình yêu, cho dù đó chỉ là tình cảm từ
một phía và không hề được đáp đền: Dẫu chẳng được hẹn hò/ Em cứ đợi, cứ say/
Ngâu có xa nhau, Ngâu có ngày gặp lại/ Kim - Kiều lỡ duyên nhau/ Chẳng thể là
mãi mãi/ Em vẫn đợi/ Vẫn chờ/ Dẫu chỉ là huyền thoại một tình yêu! (Huyền
thoại)...
Có thể thấy đây cũng là điểm gần gũi giữa nhiều tâm hồn
phụ nữ: sống nghiêng về cảm tính, khi yêu, họ thường hết mình, không chút tính
toán, so đo và những ngộ nhận, nhầm lẫn xuất phát từ sự “trái tim nhầm chỗ để
trên đầu” ấy là một điều rất dễ xảy ra. Ta có thể bắt gặp tiếng thơ đầy
khát khao dâng hiến nhưng cũng đầy những ám ảnh buồn bã trong thơ của nhiều tác
giả nữ như Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Thị Hồng Ngát, Phạm Thị Ngọc Liên, Lê Thị
Mây... Với Đoàn Thị Lam Luyến, thơ cũng là một cách để chị “tự nghiệm” về cuộc
đời với không ít xót xa. Có điều, trong cách “tự nghiệm” của người đàn bà “dại
yêu” ấy vẫn phảng phất một nụ cười giễu cợt và điều này tạo nên một sắc thái rất
riêng trong những câu thơ tình của chị: chính trong cách nói về sự “mù quáng” ấy
lại thể hiện rất rõ sự tỉnh táo của con người.
Những ảo tưởng có thể đem lại ít nhiều thi vị, ngọt ngào
trong cảm xúc, nhưng chính đó lại là nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ tất yếu khi
con người buộc phải đối diện với thực tế. Và khi đó, thay vào cái nhãn quan
lãng mạn hóa ban đầu là một cái nhìn trực diện vào đời sống với một cảm hứng
“phản tỉnh” ráo riết. Ta thấy điều này được đánh dấu bằng một loạt động từ: biết,
nhận biết, nhận ra, thức tỉnh...; một loạt tính từ: ngậm ngùi, đau khổ,
buồn nản, tàn tạ, tan nát, mệt mỏi, cô đơn, dại dột, đơn lẻ, đắng cay, trái
ngang, dang dở... Và rất nhiều những câu hỏi, những lời tự vấn hoang mang,
mệt mỏi: Em ở hiền/ Em có ác chi đâu/ Mà trời lại xui anh bắt đầu tình yêu với
người con gái khác? Có phải rượu đâu mà chờ rượu nhạt/ Có phải miếng trầu/ Đợi
trầu dập, mới cay? (Huyền thoại); Ta muốn ôm cả đất/ Ta muốn
ôm cả trời/ Mà sao không yêu trọn/ Trái tim một con người!? (Gửi tình
yêu)...
Trong một con mắt
tỉnh táo, cái tình yêu được tô vẽ với bao “ảo sắc thiên đường” đã mất đi
ánh hào quang giả dối của nó. Người đàn bà phải đối diện với sự thật đổ vỡ, dối
lừa như “những nhát roi vào tim/ Cứ bầm bầm máu ứa”. Và cái tình yêu đầy
ảo tưởng giờ đây chỉ còn lại những chua chát, bẽ bàng cùng cực: Càng say
càng gặp tình vờ/ Non non nước nước lập lờ lứa đôi (Yêu để cho thơ);
Đa tình liền với đa đoan/ Tơ duyên cứ nối lại càng nối thêm (Tích tịch
tình tang)...Tỉnh mộng, người đàn bà nhận ra cái tình yêu mà mình đắm
đuối “cá cược” cả cuộc đời mình vào đó, thực chất chỉ là một hành động mù
quáng, không hơn: Em đương lấy sóng làm cầu/ Khơi xa làm bến, đáy sâu làm
thuyền (Em gái)...Dĩ nhiên, trong cái nhãn quan ấy, hình tượng
người tình cũng sẽ mất đi vẻ hào nhoáng ban đầu. Giờ đây, người đàn ông hiện
lên chân thực hơn, và cũng tầm thường hơn. Đấy là một kẻ ham vui, yếu mềm và dễ
sa đà: Khi em chờ mỏi mắt rồi/ Anh còn ở mãi phương trời nào đây/ Nơi nào
anh cũng dễ say/ Nơi nào cũng sẵn vòng tay đợi chờ (Nhớ Hồ Xuân Hương)...;
Đấy cũng là một con người nhạt nhẽo, hèn đớn, ngược hẳn với cái say đắm đến quyết
liệt của người đàn bà: Em đam mê đến độ hững hờ/ Anh chầm bập như là yêu thật
vậy/ Nhưng em biết em chỉ là trang giấy/ Lúc mềm lòng anh rắp vẽ vu vơ (Khách
mời)... Thậm chí, lừa dối và bạc bẽo: Dù hóa trang gương mặt mình
khéo đến thế nào chăng nữa/ Anh vẫn là một Thúc Sinh Thôi/ Kỉ niệm Lâm Chuy, Kiều
có phải báo ân đền nghĩa/ Anh cũng đã đem em đi bỏ chợ người (Kiều có
ở trong em)...Rõ ràng, trong cái nhìn này, hình tượng người đàn bà mạnh
mẽ, chủ động bao nhiêu thì người đàn ông lại bạc nhược, yếu đuối, thiếu bản
lĩnh bấy nhiêu. Song thực ra, sự mạnh mẽ này dường như không phải “chủ đích” của
người đàn bà, chẳng qua khi rơi vào tình cảnh ấy, chị buộc lòng phải gồng mình
lên để chịu đựng, để gánh vác. Cái chao chát đáo để chỉ là vỏ ngoài, nhằm để
che đầy một tâm hồn yếu đuối, đa cảm và dễ thương tổn bên trong. Và điều đó,
tôi nghĩ, xét đến cùng, lại là một nỗi đau khác.
Nhưng nguyên nhân của những bi kịch ấy là ở đâu? Dù cảm hứng
phân tích, lí giải không phải là cảm hứng nổi bật trong thơ Đoàn Thị Lam Luyến,
nhưng rõ ràng chị rất có ý thức “truy tìm” lời giải đáp cho câu hỏi này. Bởi
vì, trước hết, đó là câu hỏi của chính đời chị.
Và lí do trước hết, là vì mình, vì sự ảo tưởng, non nớt,
cả tin... của mình, tóm lại là vì mình... dại. Nhưng trong một cái nhìn khái
quát, nhà thơ còn thấy một nguyên nhân nữa, chi phối những khổ đau trong cuộc đời
chị, ấy là... số phận. Trong thơ mình, Đoàn Thị Lam Luyến nhắc nhiều đến số
phận, duyên phận, số trời, mệnh trời, phận trời... Ngẫm lại phần đời đã trải
với bao cay đắng, tác giả đã phải thốt lên: Cái phận trước, cái duyên sau/
Nào ai tính được dài lâu với trời? (Chồng chị chồng em); Mẹ
sinh em đêm hay ngày/ Mà sao như số trời đày thế gian? (Tích tịch
tình tang)... Là số phận, cho nên không “có số được vàng”, là số
phận cho nên “duyên thiên cách trở muộn màng nhau”, cho nên “tơ duyên
đã nối lại càng nối thêm”... Số phận, trong một triết lí đậm tính dân gian,
như một sợi dây trói buộc vô hình mà con người khó lòng vượt ra được. Nhưng với
Đoàn Thị Lam Luyến, một người đàn bà hiện đại, số phận còn mang ý nghĩa như một
thử thách để qua đó con người bộc lộ được bản lĩnh và nhân cách sống của mình.
Dẫu không hề muốn, nhưng khi đứng trước những éo le của cảnh ngộ, những éo le
mang tên “số phận”, người đàn bà ấy không trốn tránh, hay chỉ biết than thân
trách phận, mà còn biết can đảm đối diện và vượt lên bằng một thái độ ứng xử đầy
mạnh mẽ và chủ động.
Ta có thể thấy những điều này rất rõ trong bài thơ Chồng
chị, chồng em. Bài thơ được cấu tứ trên những tương quan đối lập: xưa/
nay; gần / xa; phận/ duyên; buồn/ vui; chồng chị/ chồng em.... Đấy cũng là
cảnh ngộ tình duyên đầy éo le. Người đàn bà luôn
khát khao tìm kiếm một tình yêu lí tưởng, “một tình yêu chỉ riêng dành cho
tôi” nay lại phải đứng trước tình thế: “Xưa thì chị, nay thì em” và
cái sợi dây “tơ hồng” của duyên phận ấy thực ra cũng chỉ là “nối thêm”.
Cái sự thật đầy ngậm ngùi ấy được diễn tả ngắn gọn trong một câu lục bát với giọng
điệu thật tự nhiên và điềm đạm:
Xưa thì chị, nay thì em
Phải
duyên chồng vợ nối thêm tơ hồng
Phải chăng, chìa khóa hóa giải nỗi niềm lỡ dở và dễ gợi sự
chạnh lòng ấy nằm trong chữ “duyên” - “phải duyên”? Người đàn bà đã nhìn
nhận sự gặp gỡ ấy như là một sự tình cờ tốt đẹp của số phận, dẫu muộn mằn và
không đợi mà gặp. Nhưng đấy chỉ là một cách nói. Thực tế, cảnh ngộ vẫn đầy những
éo le: Được lúa, lúa đã gặt bông/ Được cải, cải đã chặt ngồng muối dưa;...
Vẫn đầy những bất trắc, lo âu: Tình yêu một mất mười ngờ/ Khiến cho biển cứ
khuất bờ trong nhau... Điều cơ bản khiến con người ấy có thể vượt lên tất cả
những thử thách của hoàn cảnh là “biết” - hiểu theo nghĩa là sự thấu hiểu,
cảm thông và chấp nhận. Câu thơ “Biết thì ruộng hóa cũng nên mùa màng” mang
ý nghĩa như một triết lí nhân sinh ngắn gọn mà sâu sắc. Không còn những ảo tưởng
bồng bột thời trẻ tuổi về một tình yêu duy nhất và tuyệt đối, những dang dở, đắng
cay mà người đàn bà đã trải qua suốt quãng đời dài khiến chị biết vượt lên sự
ích kỉ, hờn ghen thông thường, cả những miệng tiếng dị nghị của thói đời, để chắt
chiu, trân trọng cái hạnh phúc trong hiện tại, trong cả sự không trọn vẹn của
nó:
Đã từng hai mảnh tay không
Kể
chi mẹ ghẻ, con chung, chồng người
Dở
dang suốt nửa cuộc đời
Bỗng
dưng hiện một mặt trời trong nhau
Ta thấy người đàn bà trong thơ Đoàn Thị Lam Luyến là một
con người từng trải và thực tế. Cái mà chị khao khát là cái hạnh phúc có thực,
cái ái ân có thực của cuộc đời bụi bặm và lắm hệ lụy nhưng gần gũi này chứ
không phải ở một thiên đường cao xa và lí tưởng nào. Sự “thản nhiên”
trong câu thơ “Thản nhiên em nhận bã trầu về têm”, thực chất là một sự lựa
chọn chủ động trong một tình thế bị động. Khi đã trải qua bao thăng trầm, được
mất của đời người, người đàn bà ấy nhận ra rằng, tình yêu không chỉ là chuyện của
mỗi một cá nhân, mà còn là chuyện của cuộc đời, của tình người. Cho nên, cho đi
chính là được nhận lại. Những đau khổ dạy con người biết nhìn rộng hơn, biết độ
lượng hơn, biết tha thứ và sẻ chia hơn. Cần thấy rằng sự tỉnh táo ở đây không
phải là sự tỉnh táo của một đầu óc ráo riết duy lí là sự tỉnh táo của một tấm
lòng trung hậu. Do đó, bài thơ nói về một cảnh ngộ dở dang, ngang trái nhưng
người đọc lại nhận thấy sự vững vàng và nhân ái của một tâm hồn; bài thơ nói đến
sự chua xót và đau đớn, nhưng người đọc lại nhận ra một sự thấu hiểu và vun đắp
đầy trách nhiệm. Nói cách khác, bài thơ nói về một cảnh ngộ bi kịch nhưng cũng ở
đó, bi kịch đã được hóa giải bởi bản lĩnh và thái độ ứng xử đầy nhân văn của
con người.
Dường như, thơ với Đoàn Thị Lam Luyến là tất cả những trải
nghiệm đời sống chân thực nhất của chị. Về điểm này, thơ Đoàn Thị Lam Luyến rất
gần với thơ Xuân Quỳnh. Cũng như Xuân Quỳnh, thơ Đoàn Thị Lam Luyến luôn khao
khát hướng đến một thứ hạnh phúc của đời thường và có thực chứ không phải trong
cõi lí tưởng cao xa nào. Do đó, ta gặp trước hết (và phổ biến) trong thơ Đoàn
Thị Lam Luyến là giọng giãi bày tâm sự. Nhưng sự giãi bầy này không chỉ
dừng lại ở những cung bậc thủ thỉ, nhỏ nhẹ. Nhu cầu được “trút xả” tâm sự khiến
nhiều lúc, tác giả dường như không chú ý đến việc “làm thơ”, mà dường như chỉ
chú ý đến việc nói cho “bõ hờn”, cho “hết nhẽ” những nỗi niềm nghẹn ứ trong
lòng. Thành thử, lời thơ chị có lúc rất mộc mạc, đơn giản, giống như lời nói
thường (Thành phố không bao giờ từ biệtlà một ví dụ tiêu biểu).
Nhưng nếu như thơ Xuân Quỳnh thường nói đến một mái ấm gia đình ấm áp, sum vầy
thì thơ Lam Luyến nói nhiều đến sự lỡ dở, đắng cay, ngang trái. Cho nên, song
hành cùng với giọng điệu giãi bày tâm sự ấy là giọng tự thán chua xót. Giọng
điệu tự thán này trỗi lên trong những bài thơ mang cảm hứng thân phận, số phận
đàn bà (Gửi tình yêu, Kiều có ở trong em, Bóng người phía trước, Số được
vàng,...) Nhưng cung bậc giọng điệu thể hiện đậm nét cá tính của
tác giả này là giọng châm biếm, giễu cợt. Nó thể hiện một cái nhìn đầy tỉnh
táo và khá... đáo để của người đàn bà này về cuộc đời và con người. Trước hết
là tự giễu. Việc vẽ chân dung của mình như một kẻ “dại yêu”, một kẻ “không
có số được vàng” hay “làm nhà trên lưng cá voi”... là kết quả của một
cái nhìn trào lộng mà chua chát ấy. Chính trong cách nhìn này, chân dung người
đàn ông nhiều khi không chỉ tầm thường mà còn khá hài hước. Đây là chân dung của
một “chiến binh” tình ái: Anh đã về đấy ư/ Dửng dưng và đói khát/ Khi đã ở
bên em/ Sao vẫn còn biếng nhác? Ôi, đúng thực anh rồi/ Đâu có gì đổi khác/ Dẫu
chẳng còn thanh gươm/ Và không còn manh giáp! (Chiến binh)...
Thậm chí, trong cái nhìn giễu cợt và đáo để của tác giả, người đàn ông, “vốn
yếu mềm và biếng nhác”, được ví như một “miếng mồi của chiến tranh man rợ
diệu kì” - cuộc “chiến tranh tình ái”: Em đã đoạt anh từ tay người đàn
bà kia/ Giống như người đàn bà kia/ Đoạt anh từ tay người đàn bà khác.../ Ghen
như sôi và giận như điên (Chiến tranh)...
Trong thơ Đoàn Thị Lam Luyến, sự đan xen giữa các giọng
điệu chính là một yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của thơ chị. Đặc biệt, nó góp phần
khắc họa nên chân dung của chủ thể trữ tình: một người đàn bà đa đoan, sắc sảo
và “đáo để”, nhưngmặt khác, lại đầy đa cảm, yếu đuối, dễ thương tổn...
Hình tượng người đàn bà “dại yêu” càng được khắc họa rõ
nét qua một lối viết tự nhiên và mộc mạc. Nhà thơ sử dụng chủ yếu các thể thơ
truyền thống: lục bát, thơ năm chữ, bảy chữ... Tuy nhiên, chị thành công nhất ở
thể thơ lục bát. Ở thể thơ này, chị có nhiều bài hay, hàm súc và nhuần nhị (Chồng
chị, chồng em, Trên lưng cá voi, Bóng người phía trước, Tích tịch tình tang, Em
gái...) Tác giả cũng thường sử dụng những cách nói của ca dao,
thành ngữ, tục ngữ hoặc những cách nói thông tục trong đời sống sinh hoạt hằng
ngày, gợi nhiều ý vị dân gian, ví dụ:
-
Được lúa, lúa đã gặt bông
Được
cải, cải đã chặt ngồng muối dưa
-
Gần được ấm, xa được êm
Biết
thì ruộng hóa cũng nên mùa màng
-
Cái giần vục phải cái sàng
Xui
cho hai đứa nhỡ nhàng gặp nhau
-
Chị thản nhiên mối tình đầu
Thản
nhiên em nhận bã trầu về têm
Đặc biệt, như đã nói trên, trong thơ Đoàn Thị Lam Luyến
xuất hiện khá nhiều lần hình ảnh những người đàn bà “dại yêu” trong tâm thức
truyền thống: Mị Châu, Xúy Vân, Thị Mầu, Thúy Kiều, Hồ Xuân Hương... Được soi
chiếu từ lăng kính của một tâm hồn đồng điệu, hình tượng những người phụ nữ này
hiện lên như những con người dám sống, dám yêu, dám hết mình vì tình yêu dù
chung cục số phận của họ luôn là bi kịch. Đấy là hình tượng những người đàn bà
vừa dân giã, nôm na, vừa mạnh mẽ, quyết liệt, vừa bản năng, nồng nàn, vừa ý thức
tỉnh táo, vừa nhẫn nại, chịu đựng, vừa táo tợn, đáo để... Dĩ nhiên, những hình ảnh
khách thể ấy cũng là sự phản chiếu đậm nét của hình ảnh chủ thể.
Người đàn bà dại yêu là một sáng tạo độc đáo của Đoàn Thị
Lam Luyến. Như đã nói trên, nói đến sự “dại yêu” - như một đặc điểm nổi bật của
hình tượng người đàn bà này - chính là nói tới một thứ tình cảm tự nhiên, mang
tính bản năng mãnh liệt, không hề tính toán, vụ lợi. Và đó cũng một cách để
khái quát hóa về những trái ngang, bi kịch mà người đàn bà “dại yêu” phải nếm
trải cùng với thứ tình cảm mê đắm như là “giời đầy” của mình. Tuy nhiên, ta
cũng nên nhớ rằng, trước hết, đây là cách mà Đoàn Thị Lam Luyến dùng để nói về
chính mình. Cái sắc thái giễu cợt tuy ẩn chứa không ít xót xa bộc lộ rất rõ
trong cách nói đó của chị. Chính sự tự giễu này cho người đọc nhận ra rằng, dường
như sự “dại yêu” ấy ở người đàn bà Đoàn Thị Lam Luyến (và rộng ra, là giới nữ,
nói chung), còn là một sự lựa chọn của họ, một sự lựa chọn như là bản năng
nhưng xác quyết, bất chấp khổ đau, éo le, ngang trái... Với cách diễn tả giản dị,
mộc mạc, đan xen tự nhiên giữa yếu tố trữ tình và tự sự, tác giả còn cho ta thấy
ở người phụ nữ này một tấm lòng trung hậu, cởi mở với cuộc đời, dẫu trải qua
nhiều đắng cay, đau khổ. Con người này không còn ngây thơ (hoặc cố gắng tỏ ra
ngây thơ), ấy là một con người biết nhìn đời một cách thực tế, như nó vốn có,
nhưng vẫn không ngừng cái mong muốn về một cuộc sống tốt đẹp hơn, như lẽ ra nó
phải có. Chính vì vậy mà nó dẫn đến một điều tưởng chừng nghịch lí: khi nhận ra
những “non dại” của mình ấy là khi con người đã tự biết “rút kinh nghiệm”, đã
trở nên khôn ngoan hơn. Do đó, trong con mắt của một người đàn bà từng trải
đang “kiểm nghiệm” lại những được mất đời mình thì cách sống, cách yêu ấy là
ngây thơ, là ảo tưởng, tóm lại, là... dại! Nhưng trong cái nhìn nhân văn thì bản
thân sự “dại yêu” ấy cũng có một vẻ đẹp và ý nghĩa nào đó, đó là vẻ đẹp của sự
chân thành và đa cảm trong một tâm hồn chưa bị cuộc đời làm cho trơ lì, chai sạn.
Mặt khác, trong sự “dại yêu” ấy, như đã phân tích ở trên, người ta còn nhận thấy
một nhân cách, một bản lĩnh mạnh mẽ, cứng cỏi của một người đàn bà dám yêu hết
mình và dám chấp nhận trách nhiệm trước cuộc đời, trước số phận. Tính chất mới
mẻ và hiện đại của hình tượng này bộc lộ rõ nét trong thái độ sống và cách ứng
xử đó. Và có lẽ, đó cũng chính là điều cơ bản đã hóa giải sắc thái bi kịch
trong hình tượng người - đàn - bà - dại - yêu Đoàn Thị Lam Luyến.
Vinh,
5/7/2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét