TÂM HỒN ANH DẰN VẶT CUỘC
ĐỜI ANH
(Đọc Tuyển thơ Lưu Quang Vũ - Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, Nhã Nam và Nxb Hội Nhà văn, 2010)
(Đọc Tuyển thơ Lưu Quang Vũ - Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, Nhã Nam và Nxb Hội Nhà văn, 2010)
Lê Hồ Quang
Lưu Quang Vũ thuộc thế hệ các nhà thơ chống Mỹ. Đó là nền
thơ mang âm hưởng hào hùng của cảm hứng sử thi và chủ nghĩa anh hùng Cách mạng.
Tuy nhiên, ông đã sớm bứt khỏi từ trường của “dàn đồng ca thế hệ” để xác lập một
giọng thơ riêng với nhiều trở trăn, khắc khoải về nhân sinh, thế sự. Thơ ông,
ngay từ những năm 70 của thế kỉ XX, đã thể hiện những nhận thức mới, đầy táo bạo
về những “chủ đề lớn” của thời đại như chiến tranh, Tổ quốc, Nhân dân... Đi
cùng với một lí tưởng xã hội mạnh mẽ, tích cực, ông cũng khao khát khẳng định
mình trong tư cách “con người đời thường” với tất cả mọi biểu hiện chân thực,
nhân bản. Dĩ nhiên, điều này cần được lí giải từ nhiều nguyên nhân.
Hãy bắt đầu từ cái nhìn mang tính “phi sử thi” của tác giả
này về chiến tranh, đất nước và dân tộc. Thực ra, trong các sáng tác đầu tay của
ông, âm hưởng sử thi của thời đại “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng
phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu) vẫn rất đậm nét. Chi phối thơ ông thời kỳ
này là cái nhìn lạc quan, trong trẻo, chất chứa một niềm tin “sâu thẳm”
về cuộc đời: Ta đi giữ nước yêu thương lắm/ Mỗi xóm thôn qua mỗi nghĩa tình (Gửi
tới các anh); Ôi tâm hồn thẳm sâu/ Là những ngày đánh giặc (Chiều)...Cuộc
sống chiến đấu được cảm nhận qua con mắt nhà thơ trẻ đầy thi vị, với những đêm “hành
quân qua phố huyện”, với “hương đất hương cây bồi hồi”, với “đường
làng có hương rơm hương cỏ”, và “thôn xóm đôi bờ xanh biếc”... Nhưng
chỉ vài năm sau đó, cái nhìn về chiến tranh trong thơ ông đã khác hẳn. Đấy là một
cái nhìn trực diện, chân thực và đau đớn. Viết về chiến tranh, nhà thơ không chỉ
nhằm mục đích ca ngợi hay lên án. Ông tìm cách lí giải nó từ trải nghiệm của
chính ông - một nhà thơ, một người lính. Chiến tranh, trước hết gắn liền với chết
chóc và bi kịch. Hình tượng chiến tranh được dựng lên trong Khâm Thiên,
Ghi vội một đêm 1972, Cơn bão, Những đứa trẻ buồn, Hồ sơ mùa hạ 1972...
là “tiếng trẻ gào dưới tầng nhà đổ sập”, là “mùi thịt cháy rợn mình”,
là “bãi thây người”, là “những chiến hào máu đẫm”, là “những
xác chết cháy đen”, là “những phố làng đổ sụp”... Nhận thức về chiến
tranh trước hết là nhận thức về nỗi đau thương tột cùng mà dân tộc Việt Nam,
con người Việt Nam phải gánh chịu. Nhận thức về chiến tranh còn là nhận thức về
tội ác man rợ của kẻ thù. Nhưng hơn thế, nó còn được nhận thức như một sức mạnh
tàn bạo của cái Ác, của sự Thù hận. Nhà thơ mô tả chiến tranh như một cỗ máy hủy
diệt kinh rợn, và bị cuốn theo guồng quay của nó, nhân tính, tình yêu, hạnh
phúc, cái Đẹp... tất thảy đều bị nghiền nát. Chính vì vậy, trong Khâm
Thiên, trong nỗi đau nghẹn uất, ông viết:
Nhân
danh cuộc sống, nói về cái chết
Nhân
danh niềm vui, nói về nước mắt
Càng đi sâu vào cuộc chiến, như những “viên đạn/ xoáy
trong cuộc chiến tranh dài”, phải chứng kiến nhiều hơn những cảnh tượng giết
chóc kinh hoàng, đẫm máu, thế hệ những người lính ấy không còn đủ vô tư để ca
hát “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” (Phạm Tiến Duật). Đó là một thế hệ bầm
dập bởi chiến tranh và đã mất đi những ảo tưởng ngây thơ về cuộc chiến. Họ đầy
đớn đau, giằng xé:
Ai
bảo chúng tôi là tuổi trẻ tươi xanh
Với
mũi lê, với phát đạn đầu tiên
Chúng
tôi đã không còn trẻ nữa
(Cơn
bão)
Nhà thơ là chứng nhân trung thành
và khổ đau của lịch sử. Từ nỗi đau cá nhân để hiểu về nỗi đau dân tộc, nỗi đau
của đồng loại, nhiều câu thơ của ông thấm vị bi đát: Chúng ta còn lại gì sau
cuộc chiến tranh? Một tuổi trẻ sớm tàn/ Một đôi môi sớm tắt (Những đám
mây ban sớm). Ông nhận ra cái giá khủng khiếp mà dân tộc đã phải trả
để có thể đi đến cái đích cuối cùng:
Nhưng
mãi mãi chẳng bao giờ sống dậy
Những
tháng năm đã mất
Những
nhịp cầu gẫy gục
Những
toa tàu đã sụp đổ tan hoang
(Những
đứa trẻ buồn)
Có thể nhận thấy rõ sự chuyển đổi từ
tư duy sử thi sang tư duy thế sự, đời tư trong cách khai thác đề tài chiến
tranh của Lưu Quang Vũ. Ở đây, ông không nhìn nhận vấn đề trên lập trường chính
trị mà nhìn nhận và lí giải trên lập trường nhân tính, trên tinh thần nhân loại.
Trong cái nhìn này, chiến tranh luôn mang gương mặt đau đớn của con người. (Cần
nói thêm rằng, ở thời điểm bây giờ, nếu cách nhìn này đã trở nên phổ biến thì ở
thời kì chống Mỹ, đấy là một cái nhìn hết sức khác biệt và táo bạo, chính nó
cũng đã gây cho ông không ít hệ lụy).
Cảm hứng lịch sử - dân tộc là một cảm hứng lớn của thời
kì thơ chống Mỹ và cũng là một cảm hứng chủ đạo trong thơ Lưu Quang Vũ. Nhưng từ
cảm hứng sử thi đầy hào sảng của thời đại đến quan niệm riêng của Lưu Quang Vũ
là một quá trình nhận thức và biến đổi. Dân tộc Việt trong nhận thức của ông là
một dân tộc nghèo đói và đau thương bởi chiến tranh, bởi sự thù hận và bởi những
thế lực hung hiểm, bạo tàn. Sự đau thương này không chỉ được mô tả như một nét
đối lập để tạo nên ấn tượng sử thi, theo kiểu: Đất nghèo nuôi những anh
hùng/ Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên (Nguyễn Đình Thi) hoặc: Ôi Việt
Nam tổ quốc thương yêu/ Trong khổ đau người đẹp hơn nhiều (Tố Hữu). Đấy là
một thức nhận đau đớn và “rách xé”, bởi nó là kết quả của một cái nhìn
“phản biện” lịch sử rạch ròi đến nghiệt ngã, đến đau xót. Nhà thơ khái quát hóa
nỗi đau thương ấy thành một biểu tượng ám ảnh:
Đất
tả tơi trong định mệnh đói nghèo
Trong
độc ác, dối lừa, trong sỉ nhục
(Đất
nước đàn bầu)
Nỗi đau ấy biến thành câu hỏi nghẹn ngào:
Tất
cả sẽ ra sao
Mảnh
đất nghèo máu ứa?
Người
sẽ đi đến đâu
Hả
Việt Nam khốn khổ?
Đến
bao giờ bông lúa
Là
tình yêu của Người?
Đến
bao giờ ngày vui
Như
chim về bên cửa?
Đến
bao giờ Người mới được nghỉ ngơi
Trong
nắng ấm và tiếng cười trẻ nhỏ?
(Việt
Nam ơi)
Song, bên cạnh nỗi
đau, nhà thơ còn nhận ra vẻ đẹp và sức sống tiềm tàng mạnh mẽ của dân tộc ẩn chứa
trong chiều dài lịch sử, văn hóa, trong đời sống trận mạc và lao động lam lũ của
người dân, trong vẻ đẹp “đắng cay” mà “trong trẻo” của tiếng Việt.
Thực ra, đây cũng là một cảm hứng lớn của thơ chống Mỹ (ta có thể thấy điều này
trong sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Nguyễn Duy...) Tuy nhiên, những
cảm xúc về quê hương đất nước ấy đã được cá thể hóa một cách sâu sắc qua ngôn
ngữ thơ Lưu Quang Vũ - một ngôn ngữ thơ rất giàu màu sắc mĩ thuật. Trong Đất
nước đàn bầu, bằng trí tưởng tượng phong nhiêu, bay bổng, nhà thơ đã
“phục dựng” lại tầng tầng lịch sử tâm hồn giàu có và thiết tha của con người Việt
Nam. Đó không phải là những tàn tích hóa thạch của quá khứ. Đó là cái trữ lượng
văn hóa tinh thần sống động của dân tộc được hình thành từ lớp lớp huyền thoại
ám ảnh và nồng nàn:
Đêm
sử thi náo động tiếng quân hò
Sôi
trong máu những bầy voi nguyên thủy
Sáng
trong mắt những rừng gươm chớp lóe
Những
nỗi buồn tê dại ngón tay rung
Chim
Lạc bay, cánh rợp cả sườn non
Rùa
đẻ trứng nồng nàn trên cát bể
Rừng
gầm thét, thác nguồn sao trắng thế
Đất
mênh mông tràn ngập ánh mặt trời
Và sợi dây nối liền quá khứ với hiện tại của đất nước, của
dân tộc chính là tiếng Việt, thứ ngôn ngữ vừa “nghẹn ngào như đời mẹ đắng
cay” vừa “trong trẻo như hồn dân tộc Việt”. Tiếng Việt là tâm hồn,
là lịch sử, là sức sống của người dân Việt. Và tiếng Việt cũng chính là nhịp cầu
nối giữa những con người Việt Nam không phân chia chiến tuyến:
Ai
phiêu bạt nơi chân trời góc biển
Có
gọi thầm tiếng Việt mỗi đêm khuya?
Ai
ở phía bên kia cầm súng khác
Cùng
tôi trong tiếng Việt quay về
(Tiếng
Việt)
Với những nhận thức về chiến tranh, về dân tộc, về nhân
dân ấy, ta sẽ hiểu vì sao ngay ở thời điểm chiến tranh chống Mỹ vào giai đoạn
ác liệt nhất, trong thơ Lưu Quang Vũ đã sớm xuất hiện cái khao khát được “trở
về” - cái khao khát dỡ bỏ những rào cản hận thù để dân tộc Việt nói riêng,
nhân loại nói chung, được sống trong hòa bình, trong tình yêu và niềm vui sum họp.
Bản chất thơ trữ tình, xét đến cùng, là sự tự ý thức về
cái tôi. Sau 1970, trong sự nhận thức về mình với tư cách là một con người -
công dân và con người - cá nhân, Lưu Quang Vũ cũng đồng thời phát hiện ra mình
như một cái - tôi - khác so với cái tôi sử thi của thời đại và của chính
ông giai đoạn trước. Đó là cái tôi thế sự, đời tư. Cái tôi ấy có nhu cầu
khẩn thiết là được nhận thức lại nhiều vấn đề phức tạp đang đặt ra trong đời sống
của chính anh ta và nhìn rộng ra, là của cả xã hội. Chân dung cái tôi ấy chủ yếu
được hình thành từ trong những năm tháng ngặt nghèo nhất của cuộc đời Lưu Quang
Vũ (quãng những năm 70 - 80). Đây cũng là thời kì đất nước đang phải đối mặt với
bao vất vả, thiếu thốn, hậu quả của chiến tranh kéo dài và cơ chế quản lí quan
liêu bao cấp. Thơ ông là một bức tranh tả thực đầy nhức nhối:
Những
năm khó khăn
Hè
phố đầy hầm, đường đầy khẩu hiệu
Quần
áo và mặt người màu cỏ héo
Thiếu
ăn, thiếu mặc, thiếu nhà
Người
đợi tàu ngủ chật sân ga
Trẻ
con thiếu nơi học hành dạy dỗ
Các
cô gái trở nên suồng sã...
(Viết
lại một bài thơ Hà Nội)
Điều đáng sợ không chỉ là những vất vả thiếu thốn về chuyện
miếng cơm, manh áo, đáng sợ hơn là những vấn nạn tiêu cực đang nẩy sinh ngày một
nhiều trong đời sống hậu chiến. Nhà thơ đặc biệt nhạy cảm với những biểu hiện
băng hoại của các giá trị tinh thần, tình cảm, đạo đức trong một môi trường xã
hội mà “mọi thánh thần đã trơ gỗ mọt”, “mọi điều thiêng liêng thành
nhảm nhí”, và “con người nói với con người/ Những lời hằn thù sỉ nhục”...
Là một con người thông minh và khát khao lí tưởng, giờ
đây, khi phải đối mặt với một thực tại “đảo điên, tàn nhẫn”, với bao bi
kịch của cá nhân và thời đại, Lưu Quang Vũ không tránh khỏi những cảm xúc giằng
xé bi phẫn. Sự va đập gay gắt giữa hiện thực đời sống khắc nghiệt và những tín
niệm thiêng liêng hình thành từ tri thức thi ca và sách vở khiến nhà thơ đau đớn,
bàng hoàng. Chân dung ông qua ngòi bút “tự họa” là một con người thương tổn sâu
sắc về mặt tinh thần:
Bị
lừa dối, bị lăng nhục
Rách
rưới, bơ phờ, cô độc
Hắn
ngồi trước mặt em
(Người con giai đến phòng em
chiều thu)
Do đó, nếu ở giai đoạn trước, trong cái tôi ấy bao giờ
cũng là cảm giác tin tưởng, hy vọng, thì ở giai đoạn này, cảm giác cô
đơn, hẫng hụt, mất niềm tin bao phủ tâm hồn ông:
Sao
tôi lại muốn em tin
Khi
chính tôi cũng chẳng tin ai cả
Tôi
là đứa con cô đơn ngay khi ngồi cạnh mẹ
Thằng
bé lẻ loi giữa lớp học ồn ào
Bàn
chân hồ nghi giữa đường phố xôn xao
...Bao
lâu rồi vẫn chỉ có thế thôi
Nỗi
cô đơn hoàn toàn cô đơn khủng khiếp
Trước
và sau trong và ngoài cuộc đời và trang sách...
(Mấy
đoạn thơ)
Những trăn trở về các giá trị đời sống, giữa được/ mất,
hạnh phúc/ bất hạnh, niềm tin/ sự nghi ngờ, hiện thực/ lí tưởng, cao thượng/ thấp
hèn, chân thực/ giả trá... trở thành môtip chủ đề phổ biến trong thơ ông,
thể hiện một cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội, đau đớn và nhiều lúc khiến nhà thơ
rơi vào cảm giác bi đát và bất lực: Điều anh tin không có ở trên đời/ Điều
anh có không giúp gì ai được (Quán cà phê ngoại ô)...“Cuộc
đời thô bạo”, với “tháng ngày vỡ nát”, với “nghèo túng, lọc lừa,
bội phản” và “tuổi trẻ sớm tàn trong cay cực”... là những hình ảnh
trở đi trở lại trong thơ ông. Cái cảm giác bí bức, chật chội, thậm chí bế tắc
trở thành một ám ảnh đau đớn - Trời chật chội như chiếc lồng trống rỗng, Những
bức tường dựng đứng quanh tôi...
Tuy nhiên, dù đau đớn và có khi tưởng chừng bế tắc, điều
cơ bản níu giữ nhà thơ, không cho phép ông gục ngã, chính là cái ý thức sống và
sáng tạo trung thực mạnh mẽ. Khao khát được nói lên sự thật, “những sự thật
buồn cười mà khủng khiếp”, nhà thơ đặc biệt nhạy cảm với sự bạo ngược, bất
công, giả trá. Thơ ông là nỗi đau buốt nhức và sự phẫn nộ của một con người có
lương tri và trách nhiệm, “muốn nói hết sự thật/ về đất nước của mình”.
Đó là nỗi đau có tác dụng thức tỉnh, hướng thiện. Bởi vậy, ông tin sẽ đến lúc nỗi
đau ấy được hiểu và trân trọng:
Anh
chẳng mang cho đời những tiệc vui ảo ảnh
Nỗi
buồn chân thành đời chẳng nhận hay sao?
(Anh đã mất chi,
anh đã được gì)
Càng về sau, những nhận thức về đời sống, về con người
trong thơ Lưu Quang Vũ càng đằm sâu hơn, càng có sức thuyết phục với người đọc
hơn. Những trải nghiệm đau khổ cho ông sự trưởng thành trong nhận thức về đời,
đồng thời hình thành trong ông một thái độ và bản lĩnh sống thực tế, quả quyết
cùng tinh thần “nhập thế” tích cực.Với nhận thức: Nịnh đời dễ, chửi đời cũng
dễ/ Chỉ xây dựng đời là khó khăn thôi (Nói với mình và các bạn), cái
tôi ấy bày tỏ khao khát “trở thành người có ích” một cách thiết thực:
Không
thể ôm cả bầu trời lồng lộng
Nhưng
có thể cầm một chùm quả trên tay
Có
thể trồng thêm một bóng mát cho ngày
(Bài
hát ấy vẫn còn là dang dở)
Từ góc nhìn này, nhà thơ đã đặt ra những quan niệm thẩm
mĩ có tính cách tân khá quyết liệt (so với thời điểm đó và ngay cả với bây giờ).
Để trở nên “có ích”, thơ ca không chỉ biết ca ngợi và đồng tình, thơ ca giờ đây
còn phải biết cảnh tỉnh, biết phê phán, biết “phản biện” những mặc định của lịch
sử, của xã hội và của người khác. Không chỉ là một phương tiện trong chiến đấu,
giờ đây, thơ phải là công cụ để hàn gắn tâm hồn con người, hàn gắn tâm hồn dân
tộc, nhân loại. Trách nhiệm của thơ là đấu tranh xã hội, chống lại cái Xấu, cái
Ác, đánh thức lương tri và khát vọng còn ngủ quên trong mỗi con người. Bằng
cách nói hình tượng, Lưu Quang Vũ khẳng định thơ phải là “bó đuốc đốt thiêu
là bàn tay thắp lửa”, thơ phải “chống lại bóng đen trì trệ của đời”,
“Thơ sinh sự với cuộc đời không cho ai dừng bước”... Và trên tất cả, “thơ
phải dạy ta nhìn bằng con mắt thật”. Muốn như vậy, con người không
chỉ cần sự thông minh, mà còn cần phải “dũng cảm”. Trong bài Nói với
mình và các bạn, Lưu Quang Vũ khẳng định:
Thế
hệ mình cần những người dũng cảm
Dũng
cảm yêu thương, dũng cảm căm thù
Bởi vì:
Người
ta không thể sống bằng niềm tin đẹp
Bằng
áp phích trên tường, bằng những lời đanh thép
Phải
mang cho mọi người áo mặc cơm ăn
Phải
có nhà trường, cửa sổ, trời xanh
Những
bàn tay dám làm, những tấm lòng dám thật
(Viết
lại một bài thơ Hà Nội)
Với quan niệm ấy, một hiện thực mới đã ùa vào thơ Lưu
Quang Vũ. Một hiện thực “trần truồng”, “sắc nhọn”, “gầy guộc”, “giận giữ”...
làm lay động dữ dội tâm hồn người đọc. Đây là tiếng nói mở đường cho tư tưởng
dân chủ, đổi mới trong đời sống sáng tạo và đời sống xã hội, sẽ xuất hiệt rất
quyết liệt trong kịch Lưu Quang Vũ về sau, tạo nên một hiệu ứng xã hội mạnh mẽ.
Sự thực thì vào những năm đầu thập kỉ 80, tư tưởng nhân
sinh - xã hội này không chỉ xuất hiện ở Lưu Quang Vũ. Song ông là một trong những
cây bút sớm cất lên tiếng nói phản tỉnh quyết liệt, nhằm nhận thức lại nhiều vấn
đề của thực tại đời sống và sáng tạo. Sức thuyết phục của tiếng nói tư tưởng
này trước hết nằm trong độ sâu của trải nghiệm cá nhân cũng như độ chân thành
và nồng nhiệt của cảm xúc. Nó cũng cho thấy, ở cây bút này, sau những đổ vỡ, thất
vọng, vẫn là niềm tin hướng về một lý tưởng xã hội tiến bộ. Quan trọng hơn, tư
tưởng ấy đã được hóa thân thành những hình tượng nghệ thuật độc đáo và đây
chính là điều cốt tử tạo nên sức hấp dẫn trong sáng tác của Lưu Quang Vũ.
Trong nhãn quan sử thi của nền thơ
Cách mạng, cái tôi luôn gắn liền cái ta, và tình yêu lứa đôi cũng luôn gắn liền
với tình cảm quê hương đất nước, tình cảm cộng đồng, nó gần như trở thành một ý
niệm đạo đức - thẩm mĩ gắn bó, không thể tách rời: Anh yêu em như yêu đất nước/
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần (Nguyễn Đình Thi). Song trong nhận thức
của Lưu Quang Vũ, tình yêu là một giá trị tình cảm - thẩm mĩ tự thân. Đấy là kiểu
tình yêu cá nhân, tình yêu đời thường với bao cảm xúc, sắc thái đa dạng, phong
phú. Do đó, ông không ngần ngại bộc lộ những xúc cảm đắm say, nồng nhiệt nhất với
Em - đối tượng trữ tình trong thơ ông. Rõ ràng, kể cả từ hướng tiếp cận chủ đề
lẫn đối tượng mô tả đều ít nhiều có những nét “lệch chuẩn” so với cảm quan thời
đại. Nhưng chính đó lại là điều làm nên nét độc đáo trong thơ tình Lưu Quang
Vũ.
Thơ tình Lưu Quang Vũ hết sức say đắm, nồng nàn. Thẳm sâu
trong ông là “một tình yêu không biết nói cùng ai/ đến điên dại đến nghẹn
ngào đau đớn”. Với ông, tình yêu là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý.
Hình tượng Em trong thơ ông luôn hiện lên như một biểu tượng của mơ ước và khát
vọng:
Vượt
lên trên những mái nhà chật hẹp
Em
em là mây trắng của đời tôi
(Thơ
tình viết về một người đàn bà không có tên)
Tình yêu ấy luôn đánh thức những khát khao và niềm hoài vọng
không cùng:
Nhớ
em như nhớ một miền xa
Không
bao giờ trở về
Không
bao giờ đi tới
(Thơ
tình viết về một người đàn bà không có tên)
Không những thế, tình yêu còn có sức mạnh tái sinh tâm hồn
nhà thơ sau bao đớn đau và nghịch cảnh:
Có
em, anh hiểu lại cuộc đời
Có
em, anh bắt đầu tất cả
Bắt
đầu con đường, bắt đầu nhịp thở
Mùa
hạ đầu tiên, ngọn gió đầu tiên
(Chiều
chuyển gió)
Trong thơ Lưu Quang Vũ, ta bắt gặp rất
nhiều hình ảnh người đàn bà của đời thực, những người phụ nữ ông từng yêu
thương, gắn bó trong đời mình. Đó là người nữ diễn viên, người vợ - “mối
tình đầu tóc dại tuổi mười lăm”. Đó là người nữ họa sĩ với “Những bức
tranh nổi gió ở trên tường”. Và “những người đàn bà không tên” đã từng
đi qua cuộc đời ông với bao hạnh phúc, đớn đau. Đặc biệt, hình ảnh nhà thơ Xuân
Quỳnh, người vợ, người bạn đời ân nghĩa của ông xuất hiện rất nhiều lần trong
các bài thơ đầy xúc động như Thơ ru em ngủ, Nhà chật, Thơ viết cho Quỳnh
trên máy bay, Cho Quỳnh những ngày xa, Em vắng, Và anh tồn tại, Em II...
Người phụ nữ ấy có “đôi vai ấm dịu dàng”, có “bàn tay luôn đỏ lên
vì giặt giũ mỗi ngày”, có “đôi mắt buồn của một xứ sở có nhiều mưa”...
Quả thực hiếm có người đàn ông nào lại viết về vợ mình với tình yêu và cảm xúc ơn
nghĩa sâu nặng như Lưu Quang Vũ:
Dù
sao cuộc đời đã dành em lại cho anh
Điều
mong ước đầu tiên điều ở lại sau cùng
Chúng
ta đi bên nhau trên mặt đất
Dẫu
chỉ riêng điều đó là có thật
Đủ
cho anh mãi mãi biết ơn đời
(Em
II)
Số lượng dồi dào các bài thơ tình trong Tuyển thơ
Lưu Quang Vũ (61/136 bài) cho thấy rõ sự chi phối của cảm hứng trữ tình đời tư
trong sáng tác của ông. Với việc đào sâu vào những cung bậc cảm xúc tình yêu phức
tạp và sâu kín, không ngần ngại đưa ra những chi tiết cá nhân, riêng tư, dễ gợi
liên hệ tới những “nhân vật” đời thực (chẳng hạn tên những người phụ nữ), những
lời “tụng ca” về Em..., tất cả đều cho thấy một quan niệm nhân sinh - thẩm mĩ độc
đáo của Lưu Quang Vũ. Những tình cảm yêu thương đắm say, nồng nàn và chân thực
trong thơ giúp ta nhận ra một góc khác của tâm hồn ông - một người đàn ông hào
hoa, đa cảm, một người tình đắm say, một người chồng, người cha yêu thương,
nhân hậu... Nó bổ sung vào cái chân dung tinh thần phức tạp và đa diện của người
nghệ sĩ này một nét đẹp đầy nhân tính.
Nhu cầu phản ánh đời sống trong cái diện mạo rộng lớn, phức
tạp và đa chiều của nó buộc tác giả phải tìm kiếm và lựa chọn những hình thức
diễn tả tương ứng. Nhìn một cách bao quát, có thể thấy, trong thơ Lưu Quang Vũ,
cảm hứng mô tả về một hiện thực mới, phức tạp đã tạo nên sự “giãn nở”, “nới rộng”
hình thức văn bản cũng như sự đa dạng hóa trong hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu...
Nếu giai đoạn đầu, nhà thơ chủ yếu sử dụng các thể thơ
quen thuộc như 7 chữ, 8 chữ và 5 chữ, bài thơ thường có sự phân khổ, phân đoạn
khá nghiêm ngắn, rành mạch, thì ở giai đoạn sau, ông chủ yếu viết theo thể tự
do. Bài thơ thường không phân khổ, là sự kết hợp linh hoạt nhiều câu thơ dài ngắn
khác nhau, kéo dài theo mạch cảm xúc, suy tưởng. Nhiều bài thơ trữ tình của ông
(rất) dài, thậm chí có thể nói đến một xu hướng “trường ca hóa” trong thơ ông: Viết
cho cho em từ cửa biển, Đất nước đàn bầu, Việt Nam ơi, Người cùng tôi, Bài ca
trên bán đảo, Năm 1954, Hoa cẩm chướng trong mưa, Cơn bão, Những đám mây ban sớm,
Khâm Thiên, Những đứa trẻ buồn, Tìm về, Những người bạn khuân vác, Nói với mình
và các bạn... Nhu cầu được giãi bày “kiệt cùng”, “tận độ” những
bức bách nội tâm chủ thể đã tự nó phá vỡ những khuôn khổ hạn định của hình thức
văn bản.
Hướng về cuộc đời trong khát vọng chiếm lĩnh bản chất hiện
thực của nó, điều này cho phép thơ Lưu Quang Vũ dung nạp nhiều sắc thái giọng
điệu trên nền giọng cơ bản là suy tư, khắc khoải, trầm thống... Xuất phát từ
nhu cầu giao tiếp trực tiếp, thơ ông rất linh hoạt trong sử dụng các hình thức
câu khác nhau (kể, tả, hỏi, cảm thán...); sử dụng phổ biến các đại từ nhân xưng
(các đại từ nhân xưng có thể thay đổi liên tục tùy theo đối tượng trữ tình
trong bài thơ, tạo nên sự thay đổi sắc thái cảm xúc, giọng điệu tương ứng, ta
có thể thấy hiện tượng này trong một số tác phẩm như Đất nước đàn bầu, Những
đám mây ban sớm...). Nếu trong những sáng tác đầu tay, thơ ông mang giọng
điệu tươi tắn, trong trẻo thì giai đoạn giữa, chuyển gam trầm thống, khắc khoải,
và ở thời kì cuối, trở lại giọng trầm tĩnh, thiết tha trên một nhận thức sâu sắc
và bao dung hơn về cuộc đời, con người.
Về mặt kết cấu, thơ Lưu Quang Vũ chủ
yếu sử dụng hình thức kết cấu mở với lối cấu tứ theo mạch cảm xúc - hình tượng
(xin lưu ý đây là một cách diễn đạt có tính quy ước). Cảm xúc và suy tưởng của
tác giả chi phối rõ nét đến tổ chức văn bản cũng như hệ thống hình tượng trong
tác phẩm. Mạch cảm xúc thúc đẩy sự hình thành của hệ thống hình tượng, và ngược
lại, sự xuất hiện các hình tượng dẫn dắt, khêu gợi, thúc đẩy mạch thơ tiếp tục
phát triển. Một bài thơ có đặc điểm cấu tứ này không chỉ đòi hỏi độ mãnh liệt
trong cảm xúc, nó còn đòi hỏi một trực cảm nhạy bén với khả năng liên tưởng dồi
dào, phóng túng. Tư duy thơ Lưu Quang Vũ tỏ ra rất phù hợp với lối cấu tứ này.
Ta thấy trong nhiều bài thơ của ông, tiêu đề chỉ đóng vai trò định hướng ban đầu,
còn nội dung bài thơ sẽ dẫn người đọc đi rất xa với những cảm xúc, suy tư ào ạt,
không ngừng về đời sống, về hạnh phúc, tình yêu, cái đẹp của nỗi đau buồn... Đất
nước đàn bầu là một ví dụ, rất khó để “gò” ý nghĩa của bài thơ về một số
tóm tắt nội dung sơ giản. Từ hình ảnh những chiếc trống đồng vùi trong cát
với những con chim lạc mỏ dài và những bộ lạc mình vẽ đầy rồng rắn
thấm đẫm màu sắc huyền sử, bài thơ nhanh chóng chuyển cảnh sang buổi sáng
thực tại với hoa móng rồng thơm ngát/ lá xương xông mọc quanh vại nước, rồi
đột ngột, hiện lên hình ảnh quạ đen đậu ngôi mộ cổ/ những con bướm đêm đập
cánh thầm thì với điệu hát chập chờn/ con gà rừng mê sảng; cũng đột
ngột không kém, mạch thơ chuyển sang cảnh chiến trận với hình ảnh vó ngựa
lao dồn dập/ giặc phương Bắc kéo về/ vung gươm dài đẫm máu... Cảm hứng mô tả
về đất nước trong tiến trình lịch sử, trong chiều sâu văn hóa và đời sống của
người dân, trong sự nối liền quá khứ và hiện tại ấy đã kết đọng trong những biểu
tượng thơ tuyệt đẹp:
Những
con chim lạc mỏ dài
Bay
qua vầng trăng lớn
Cánh
sừng sững tắm hoàng hôn đỏ rực
Cất
tiếng kêu hoang dại dưới đêm nồng...
Độ mãnh liệt của cảm xúc, độ rậm rạp, biến hóa của hình ảnh,
chi tiết miêu tả, sự đa nghĩa, ám gợi của các biểu tượng... là thế mạnh của thơ
Lưu Quang Vũ. Sự dồn đẩy liên tục của những liên tưởng, tưởng tượng phóng túng,
say sưa và đầy bất ngờ đem lại một ấn tượng thẩm mĩ đặc biệt độc đáo.
Sự thụ cảm đời sống của Lưu Quang Vũ nghiêng về những cảm
giác, cảm xúc trực tiếp. Hiện thực trong thơ ông thường được đồng hóa bởi những
chi tiết gọn, sắc, đập mạnh vào ấn tượng. Thơ ông giàu chất tạo hình với sự phối
màu, hòa sắc, hòa âm táo bạo. Các gam màu mạnh, gắt, rực rỡ hoặc u buồn đều
nguyên khối, đậm nét. Nhờ vào cách sử dụng đích đáng các các từ ngữ mô tả (đặc
biệt là các tính từ) và các hình ảnh liên tưởng táo bạo mà bức tranh đời sống
trong thơ Lưu Quang Vũ luôn hiện lên một cách hấp dẫn, sắc nét, sống động. Bên
cạnh đó, kĩ thuật kết hợp giữa yếu tố thực và ảo, cụ thể và trừu tượng, vật chất
và cảm xúc v.v. cũng góp phần tạo nên một ngôn ngữ thơ vừa cụ thể, cảm tính vừa
giàu ý nghĩa tượng trưng, chẳng hạn:
Những
ban mai xanh biếc tiếng đàn bầu
Bà
hiền hậu têm trầu bên chõng nước
Em
đi gặt trên cánh đồng cổ tích
Lúa
bàng hoàng chín rực những triền sông
(Đất
nước đàn bầu)
Nhà thơ thường sử dụng thủ pháp trùng
điệp, nhằm mục đích xoáy sâu một ấn tượng, một cảm giác, một nỗi ám ảnh, chẳng
hạn: Những chiếc xe tăng đi qua/ Những khẩu súng đi qua/ Những
người lính đi qua/ Chẳng có gì cùng ta ở lại (Mặt trời trong nước lạnh)...
Sự bén nhạy trực giác cho phép ông dễ dàng kết hợp, liên tưởng, so sánh những
sự vật, hình ảnh vốn cách xa nhau trong thực tế, nhưng vẫn hết sức chuẩn xác, vẫn
đem lại những cảm giác thơ trọn vẹn. Chẳng hạn, về một con sông, ông viết:
Con sông như anh thợ tàu mười bảy tuổi/ Quả cảm và du đãng/ Nhem nhuốc và mơ
mộng... Về một hải cảng, ông viết: Tươi trẻ đến phát lo/ Ồn ào mà sâu
hút/ hải cảng trần trụi như bắp thịt/ Ròng ròng mồ hôi (Viết cho em từ
cửa biển)...
Có thể nói Lưu Quang Vũ có biệt tài sử dụng ngôn ngữ
trong tính chính xác và độ gợi cảm nhất của nó. Tuy nhiên, nếu đi sâu hơn, ta sẽ
thấy hai xu hướng tìm tòi khá là trái ngược. Một mặt, ngôn ngữ ấy có xu hướng đời
thường hóa, mộc mạc và đơn giản, rất gần với ngôn ngữ đời sống. Chúng vừa giản
dị, tự nhiên, đồng thời vừa rất giàu trữ lượng khái quát nội tâm, chẳng hạn:
Trái
đất mình rộng quá
Ở
đâu cũng có con người
Sao
chưa tìm được cách nào
Sống
với nhau cho ổn thỏa?
(Hoa
cẩm chướng trong mưa)
Tuy nhiên, bên cạnh xu hướng đó, ngôn ngữ thơ Lưu Quang
Vũ còn rất giàu yếu tố tượng trưng, siêu thực. Nhiều tác phẩm của ông dựng nên
những thế giới hết sức lạ lùng, kì ảo, phi logic nếu xét theo cái nhìn thông
thường. Ngôn từ, hình ảnh hoàn toàn vượt ra khỏi trật tự tuyến tính, chúng như
được “sắp xếp lại” trong một trật tự nội tâm mơ hồ, xa thẳm. Nhiều hình ảnh thơ
của ông rất đặc biệt, rực rỡ mà đau đớn, gợi nhiều ám ảnh lạ lùng. Bài thơ Bây
giờ (có phụ đề là Tưởng tượng về một bài hát) là một ví dụ:
Bây
giờ
Hai
đạo quân đã giết hết nhau
Tiếng
trống cuối cùng đã bặt
Người
ngựa đều ngã gục
Chỉ
còn con quạ xám đậu trên bờ
...
Bây
giờ
Em
trụi trần dưới vòm cây tối đen
Ngực
đồi trăng ướt đẫm
Tay
chập chờn lửa sáng
Nhưng
đã muộn rồi ôi muộn lắm
Vực
sâu đã mở ra
Chôn
cả lời trăng trối của mùa thu
Một
chiếc lá khổng lồ đỏ thắm
Ta còn có thể tìm thấy điều này trong
nhiều bài thơ khác: Móng tay trên đá, Những ngọn nến, Giấc mộng đêm, Chiều
cuối... “Vệt thơ siêu thực” này cho ta thấy thêm quan niệm về hiện
thực của nhà thơ. Đó không chỉ là một hiện thực được phô bày trước mắt, có thể
“nhìn thấy”, nó còn là một hiện thực ở “bề sâu bề xa”, một hiện thực chỉ có thể
“cảm thấy”. Hiện thực ấy chỉ có thể diễn tả một cách đích đáng nhất bằng trực giác
và biểu tượng. Như vậy, nó không chỉ bộc lộ tư tưởng mở rộng, đào sâu vào hiện
thực của Lưu Quang Vũ mà còn cho thấy ý thức của ông trong sáng tạo ngôn ngữ,
nhằm chiếm lĩnh hiện thực trong tất cả những chiều kích rộng lớn của nó.
Thơ Lưu Quang Vũ là một cuộc truy vấn lớn về nỗi đau và vẻ
đẹp nhân sinh, thế sự, về ý nghĩa của đời sống cá nhân, về lý tưởng xã hội và
sáng tạo... và về điều này, hãy dùng chính thơ ông để diễn tả - Tâm
hồn anh dằn vặt cuộc đời anh... Đó cũng là một cuộc truy vấn với Vô cùng,
và sẽ luôn được tiếp tục, bởi ấy là những giá trị muôn đời mà người nghệ sĩ
chân chính tìm kiếm, bất chấp mọi trả giá tàn khốc. Như chính ông từng tiên liệu:
Và
mai sau sẽ có những nhà thơ
Đứng
trên tầng cao ta ao ước bây giờ
Họ
sẽ vẫn không ngừng đập cửa
Không
ngừng lo âu không ngừng phẫn nộ
Bởi
vô biên là khát vọng của con người...
(Những
đám mây ban sớm)
Vinh,
7/12/2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét