VẬT CHỨNG TRƯỚC THỜI GIAN
(Về tập thơ Những kỉ niệm tưởng
tượng của Trương Đăng Dung,
Nxb Thế giới, 2011)
Lê
Hồ Quang
1. Tiêu đề Những kỉ niệm tưởng tượng không hẳn là
một cách chơi chữ. Đó là phúng dụ về
hiện thực qua một cách nhìn khác. Ở đó, thế giới được thiết lập nên bởi nhiều
chiều kích của kí ức và sự tưởng tượng, chúng tạo nên tính chất mơ hồ, bất định
và đôi khi nghịch dị trong “những ý nghĩa
thỏa thuận” của ngôn từ. Ở đó, thời gian không trôi theo trật tự tuyến tính,
nó bị đảo ngược, xâm thực, chồng lấn, xóa nhòa những ranh giới hiển nhiên, tạo
nên những tương tác huyễn tưởng, phi thực - đó là thời gian để bắt đầu những
suy niệm trừu tượng. Cũng ở đó, quá khứ và hiện tại, hiện thực và tưởng tượng,
điều đã có và cái chưa từng diễn ra…, tất cả đều có thể đồng hiện và đan cài
vào nhau trên cùng một mặt cắt thời gian. Tồn tại trong thơ Trương Đăng Dung là
một đời sống đã được gián cách hóa.
Nhà thơ biết giữ khoảng cách để cái hiện thực sự kiện “sống sít” được lắng lại,
và thông qua màng lọc tâm hồn, biến chúng thành cái hiện thực ưu tư. Chính khoảng cách này cho phép ông nhìn về thế
giới không phải như nó là, mà nó trong sự hình dung là. Và bởi vậy, Những kỉ niệm tưởng tượng không chỉ là cái
tên gọi, nó còn là chìa khóa để mở ra một hiện thực khác – hiện thực của thi ca.
2. Ý niệm về thế giới của
Trương Đăng Dung gắn liền với cảm thức thời gian. Thực ra, khi con người bắt
đầu ý thức về mình như một cá nhân thì đồng thời với điều đó, ý thức về thời
gian cũng được mài sắc hơn bao giờ hết. Thời gian qua hình ảnh mái tóc “mới sớm còn tơ xanh chiều đã tuyết” (Lí
Bạch) trong thơ xưa hay cảm giác “cái bay
không đợi cái trôi/ từ tôi phút trước sang tôi phút này” (Xuân Diệu) trong
Thơ mới, dù ở những mức độ khác nhau, đều được nhìn từ thước đo cá nhân này.
Nhưng với Trương Đăng Dung, cảm thức thời gian ấy gắn liền với nỗi ưu tư về
thân phận con người trong một thời đại đầy biến động: những chuyến tàu chạy ngược chiều kí ức/ không bao giờ vào ga/ những
gương mặt người lướt qua/ như con số đếm giây trên đồng hồ điện tử (Thành phố
phía chân trời)… Cảm thức ấy không chỉ giúp nhà thơ nhận ra sự nhỏ bé của “những kiếp người” đã “tan trong sương khói”, mà nó còn đẩy ông
dấn sâu thêm trong những suy tư hiện sinh. Một mặt ông nhận ra cái kết cục bi
đát của phận người nói chung - “sinh ra để rồi chết”: một ngày kia hết mọi buồn vui/ chui xuống cỏ ta sẽ nằm dưới cỏ/ bàn tay
ta bất động giữa đất dày/ bàn tay ta thôi tìm nhau run rẩy (Ảo ảnh); nhưng cùng
với điều đó, ông nhận ra sự “sinh sôi”
như một quy luật tiếp nối vĩnh hằng: Em ở
lại/ một lần nữa cùng anh giữa mùa trăng sắp lụi/ ta nghe tiếng muôn loài hấp
hối/ tiếng côn trùng trong cát bụi sinh sôi (Ảo ảnh)…Chính vì vậy, thời
gian có thể biến mắt trong từng khoảng khắc thực tại (Khi môi ta rời nhau/ hơi ấm đã thuộc về quá khứ - Vật chứng), đồng
thời nó có thể được kéo giãn đến vô cùng trong vòng sinh hóa bất tận: Có thể em quên rằng anh đã gặp em/ hai mươi
ba ngàn năm về trước…/Anh không biết dòng sông trôi về đâu/ bốn mươi sáu ngàn
năm nữa (Có thể)…. Có thể diễn tả ý niệm thời gian của Trương Đăng Dung qua
một cặp phạm trù tương phản mà thống nhất, đó là thoáng chốc và vĩnh viễn.
Đi cùng cảm giác về cuộc đời chỉ như một “ảo
ảnh”, chỉ là “nơi bình minh tạm trú
trước hoàng hôn”; nhà thơ cũng đồng thời “cảm nhận thời gian qua từng giọt nước/ hai mươi ba ngàn năm trong giọt
nước mắt này”. Cái vĩnh viễn đã
trở thành một thoáng chốc và ngược
lại. Ta có thể nói đến một thứ “triết học thời gian” trong thơ Trương Đăng
Dung, nó là phản chiếu của một nội tâm quen nhìn sự vật trong tính quy luật và sự
tồn tại bản chất của chúng.
3. Thực ra, với Trương
Đăng Dung, ý niệm thời gian tương đối ấy là phương tiện chứ không phải là cứu
cánh. Nhãn quan này cho phép nhà thơ dễ dàng phối trộn, lắp ghép giữa quá khứ /
hiện tại, không gian/ thời gian, phương Đông/ phương Tây, thực/ ảo… Vì vậy mà trong
Có thể, ông dễ dàng tồn tại trong cái
trạng thái phân thân giữa cái tôi bây giờ
và cái tôi “hai mươi ba ngàn năm về trước”.
Vì vậy mà trong Tôi lại nhìn thấy họ,
ông có thể nhìn thấy “những người vợ suốt
đêm vá lưới/ mắt quầng thâm nhìn chồng” và “từng
đoàn người tay xách nách mang, lầm lũi đi qua cánh đồng bạc trắng” ở một
làng chài nghèo khó quê ông giữa một “trời
Âu” hoàn toàn khác biệt và xa lạ - “đêm
đêm giữa trời Âu/ những người tôi mới gặp lần đầu/ những người tôi chưa từng
được gặp”… Suy tư về thời gian trong thơ ông thực chất là sự suy tư về phận
người. Không phải về một cá nhân riêng lẻ mà là thân phận con người nói chung. Đó
là những thân phận bé nhỏ, đơn độc, mệt mỏi, sợ hãi. Điều đó được khẳng định
rất rõ trong những câu thơ như hành động truy vấn tinh thần này:
Anh hỏi dòng
sông về hạnh phúc trên đời
sông trả lời anh sông
chỉ biết trôi,
anh hỏi ngọn núi
núi trả lời anh núi
chỉ biết ngồi,
anh hỏi con người
người trả lời anh bằng
nước mắt rơi!
(Ảo ảnh)
Như vậy, trong thơ Trương
Đăng Dung, thời gian được diễn tả như một phúng dụ về trạng thái nhân thế phổ
quát. Điều này cho thấy một tâm trạng có phần bi quan của nhà thơ, vì xuyên qua
trục không – thời gian ấy, cái mà ông luôn nhìn thấy, như là sự lặp lại giễu
cợt của lịch sử, là một hiện thực không lí tưởng, đầy bất trắc, thậm chí phi
lí. Những kỉ niệm tưởng tượng (bài
thơ được lấy tên làm tiêu đề chung cho cả tập và cũng là tác phẩm, theo tôi, là
nổi bật nhất của tập thơ này), thể hiện rất tập trung tư tưởng ấy.
Bài thơ gây một “ám ảnh”
(thậm chí “tái ám ảnh”) * mạnh mẽ tới độc giả bởi nhiều lí do. Trước hết là sự
độc đáo trong bút pháp. Đó là sự xáo trộn đầy bất thường về không gian (phương Đông/ phương Tây); thời gian (tháng Năm năm 1054/ sáng nay/ ngày sinh lần
thứ một ngàn…); Đồng thời với điều đó là sự đứt mạch, “nhảy cóc” trong cảm
xúc, câu chữ và sự chuyển đổi đột ngột đối tượng trữ tình. Sự tương phản kì dị,
thậm chí “kinh rợn” trong các hình ảnh thơ cũng là một trong những điểm gây ấn
tượng mạnh với người đọc. Có thể nhận ra rất rõ dấu ấn của bút pháp siêu thực
trong tác phẩm. Tuy nhiên, mục đích của tác giả không phải nhằm đi đến những
cách tân thuần túy hình thức. Cách viết đặc biệt này nhằm lột tả bản chất của
một trạng huống hiện thực phổ quát. Sự ghép nhập các phiến mảnh không - thời gian vốn xa cách như trên kì thực nhằm để
nhấn mạnh sự tương đồng giữa Đông và Tây, xưa và nay, quá khứ và hiện tại... Đó
là sự tương đồng - đúng hơn là sự lặp lại - của những quy luật vận hành thế
giới. Thoạt nhìn, những hình ảnh, chi tiết thơ có vẻ lộn xộn và không nhất quán
(điều mà nhiều người đã nói tới). Tuy nhiên, khi sắp đặt tất cả những chi tiết
ấy trong một tổng thể, dưới cái nhìn suy tư về phận người, bài thơ đã tạo nên
sự kết nối đầy ý nghĩa các chi tiết nhỏ lẻ và rời rạc. Mối liên hệ kết nối giữa
tôi (chủ thể trữ tình) – anh (nhà thơ Hunggary, đối tượng trữ
tình thứ nhất) – mẹ (đối tượng trữ
tình thứ hai) – em (đối tượng trữ
tình thứ ba) được hình thành trên cơ sở tương đồng thân phận. Sự xuất hiện liên
tục của những đại từ xưng hô số nhiều: tôi
với anh/ ta/ chúng ta; sự lặp lại cố ý của cụm từ “cùng nhau” nhằm tô đậm thêm tính “tất yếu” của số phận con người dù
khác màu da, quốc tịch, tuổi tác, dù là tôi/
anh/ mẹ tôi/ em tôi/ bác sĩ/ y tá/ gái điếm/ trẻ nhỏ/ người già… Đó không
phải là một nỗi đau siêu hình. Đó là sự lặp lại của tấn bi kịch khi con người
vừa là nạn nhân nhưng cũng có khi là đao phủ của chính mình bởi những tham vọng
mù quáng. Trên nền một thời gian có tính ước lệ, bị xáo trộn, cắt rời, đứt nối
vô hạn định, là hình ảnh một cuộc sống với những chi tiết “tả thực” đến gây sốc.
Đó là những hình ảnh dồn chứa nỗi đau đồng thời mang một sắc thái châm biếm kín
đáo:
Chúng ta lớn lên cùng nhau ăn thịt chó
cùng nhau thấy những những con trâu vừa kéo cày
vừa đái bừa xuống ruộng
cùng nhau thấy những gái điếm ngủ dọc
bờ sông
đầu gục xuống
và những chuyến tàu
chở đầy ắp vũ khí
trên nóc toa là trẻ nhỏ người già
Và bài thơ kết thúc trong
một dự cảm mang màu sắc u mua, nghịch dị:
Đã lâu rồi quạ cũng bay đi
có lẽ một ngày kia chúng sẽ trở về mang theo nhiều xương ống
để làm búp bê cho em tôi chơi
làm dùi cho em tôi đánh trống
Ta sẽ còn bắt gặp hiện
thực nghịch dị ấy trong những bài thơ khác của Trương Đăng Dung. Chẳng hạn
trong Chân trời: Anh đã thấy những người dị dạng/ dang tay đòi hái mặt trời/ những bóng
ma thọt chân lang thang/ đòi trở về quê cũ/ Và những đội quân không mũ/ tay
súng tay đao chân bước thụt lùi/ những nhà thơ chống gậy đứng cười/ trước những
con trâu mông dính đầy mạng nhện…; Chẳng hạn trong Giấc mơ của Kafka: Khắp nơi/ những đôi mắt/ dính trên cổ những người
không có mặt/ những tiếng kêu/ phát ra từ miệng những người không có cổ/ những
bàn chân/ càng bước càng lún sâu vào đất… Đó là những biểu tượng về một cuộc
sống bị áp đảo bởi chiến tranh, bạo lực và nỗi đau, trong đó, thân phận con
người xiết bao u tối, nhỏ bé và bất lực.
4. Như một phản ứng tâm
lí – thẩm mĩ tất yếu, đi cùng nhận thức hiện thực ấy, trong thơ Trương Đăng
Dung hiện diện thường trực là nỗi khát khao về cái Đẹp và những giá trị vĩnh
cửu. Hãy chú ý đến hình tượng Em trong thơ ông. Đây là một biểu tượng quen
thuộc trong thơ, nhất là thơ lãng mạn chủ nghĩa, đó là hình ảnh tượng trưng cho
tình yêu, khát vọng hạnh phúc, cái Đẹp thi ca v.v.. Song với Trương Đăng Dung, Em
không chỉ là hình ảnh một người tình gắn với những cảm xúc ái ân ngọt ngào. Hình
ảnh Em hiện lên trong thơ ông như một bản thể lẻ loi và đơn độc giữa nhân thế:
Bao nhiêu lần khép cửa
em vẫn thấy mình chưa ở bên trong
Và cặp môi hồng
mím chặt vào nhau an ủi
(Thành phố
phía chân trời)
Nếu trong thơ của nhiều
tác giả, Em là một biểu tượng của cái Đẹp thì ở thơ Trương Đăng Dung, Em còn là
hình ảnh tượng trưng cho thân phận côi cút và mong manh của chính cái Đẹp trong
một đời sống dằn dữ và bất trắc. Cho nên hình ảnh Em gợi nên bao âu lo trĩu
nặng:
Mỗi ban mai khép cửa
anh vẫn ngoái nhìn em lần nữa
ngoài kia mây bay
gió thổi mong manh rèm cửa đóng
ngoài kia trời rộng
ở đâu đó đang gầm lên tiếng súng…
(Anh
không còn gì ngoài em)
Nhìn rộng ra, trong thơ
Trương Đăng Dung, Em vừa là một đối ảnh tâm hồn vừa là một bản thể tinh thần trùng
khít với cái tôi thi nhân. Bởi vậy, tìm kiếm Em không chỉ là tìm kiếm tình yêu,
hạnh phúc mà còn là tìm kiếm diện mạo tinh thần của chính Anh – nhà thơ. Đó là
một hành trình nội tâm dài dặc, không ngừng: Bao năm rồi anh tìm em/ trong những bình minh không không có mặt trời/ trong
những lâu đài chỉ có cánh dơi/ trong những giấc mơ không đầu không cuối (Ảo
ảnh)…Qua Em, Anh tìm thấy chính mình:
Anh nhìn vào mắt em
thấy hình anh ở đó
Nếu mắt em khép lại
ảnh hình kia chỉ còn lại trong em
anh không còn thấy anh trong hiện tại
chỉ thấy em với những hình những ảnh
của mùa hè đang qua
một góc vườn và mấy khóm hoa…
(Ảo
ảnh)
Hình ảnh Em và Anh - cái
tôi nhà thơ đã trở thành một cặp biểu tượng song trùng, chúng ánh xạ vào nhau,
chiếu rọi rõ nét hơn cảm thức thân phận con người. Vì vậy, nếu hiện thực nhân
sinh được nhà thơ hình dung như một cõi thế xa lạ, đầy những bức tường ngăn
cách và thù nghịch thì Chân trời
chính là cái đích khát vọng mà Anh và Em hướng tới. Chân trời đồng nghĩa với sự
bí ẩn, nơi gửi gắm những mơ ước và cũng là nơi đánh thức bao nỗi “khắc khoải”: Anh đã đứng trong màn đêm/ khắc khoải chờ em đến/ cùng đi về phía chân
trời (Chân trời)… Tuy nhiên, những trải nghiệm cá nhân và cả những kinh
nghiệm lịch sử lặp lại khiến nhà thơ, bên cạnh những khát khao trải nghiệm nhằm
thỏa mãn nhu cầu lí tưởng, vẫn luôn cảm thấy bất an. Đấy là một phức hợp cảm xúc, trong đó những cảm nhận
về cái Đẹp, về tình yêu luôn đi cùng với cảm giác cô đơn, trống trải và nỗi sợ
hãi:
Em đã đến
đẹp như ánh trăng
cô đơn như ngọn gió,
chúng ta nằm trên cỏ
sợ hãi trước chân trời
(Chân
trời)
5. Thơ Trương Đăng Dung,
với thể thơ tự do và giọng điệu tự sự từ tốn, tha thiết, là một lựa chọn phù
hợp với cái đích bộc lộ sự cảm nghiệm đời sống trong những chiều kích thời gian
rộng dài và những quy luật vận hành lặng lẽ không ngừng của nó (do xuất phát từ
nhu cầu “trình bày tư tưởng” này nên ở một số bài, ông chọn cách nói trực tiếp,
điều này dẫn đến việc hơi lộ ý, bù lại nó cho người đọc thấy rõ hơn cái tạng
chất triết lí của thơ ông). Thời gian ở đây gắn liền với những thức nhận về đời
sống nhân sinh mà cái cốt tủy của nó là cảm giác bất trắc. Ta có thể thấy rõ
điều này trong Vật chứng. Đây là bài thơ
diễn tả rất hay cảm giác nước đôi phức tạp của con người trước thời gian. Một
mặt, con người lí trí tỉnh táo biết rất rõ rằng trước thời gian rồi mọi cái trở
nên vô nghĩa, nó biến con người, nói như Xuân Diệu, từ “dương vô cùng đến âm vô
cùng”. Nhưng bằng những hành động sinh tồn cụ thế, anh ta vẫn không ngừng khát
khao và nỗ lực chống lại cái dòng chảy ghê gớm đó (thực ra, đây là nỗi niềm
nhân sinh muôn thuở, thể hiện rất rõ trong văn chương, chẳng hạn trong đoạn độc
thoại nổi tiếng của chàng Hamlet). Vì vậy, cái yêu cầu của nhà thơ với người
tình: Em đừng xếp lại chăn/ em đừng chải
lại tóc/ em đừng tô lại môi/ cứ để nguyên áo quần trên ghế/ cứ để nguyên hiện
trạng căn phòng/ Anh cần vật chứng/
trước thời gian (câu này tác giả bài viết in đậm) thoạt nghe có vẻ khá…trái
khoáy. Tuy nhiên, đấy là một yêu cầu mang
tính triết lí hơn là một hành động thực tế. Trong yêu cầu khẩn khoản đó, ta
đọc thấy nỗi lo âu cùng cái khát vọng cưỡng lại dòng chảy thời gian, nhằm “đánh
dấu” về sự tồn tại của tình yêu, hạnh phúc – những thứ vốn quá dễ lụi tàn trong
đời sống con người, lại càng quá mong manh trước thời gian vô tận. Song, nếu vũ
trụ là vô cùng thì đời người chỉ là hạt bụi trên guồng quay “vô tăm tích” của
nó. Cưỡng lại vòng quay ấy bằng những “vật chứng” như hơi ấm một làn môi, một
lần tình tự, chẳng phải là quá… mơ hồ hay sao? Kì thực đây chỉ là một cách “đặt
vấn đề” của Trương Đăng Dung. Sự thật thì trong quan niệm của ông, “vật chứng
thời gian” không chỉ có thế. Với ông, sự tồn tại của đời sống, dù là một đời sống
đầy thăng trầm, khắc bạc, là có thật. Sự tồn tại của con người, dù trong thân
phận hữu hạn và đau khổ, là có thật. Những mơ ước, khát vọng của con người là
có thật. Nhưng chúng chỉ thực sự tồn tại như một “vật chứng” trước thời gian khi con người suy tư về chúng. Sự suy tư
- ấy là bằng chứng về sự tồn tại đích thực của con người giữa thế giới. Đó là
khởi thủy của sự xuất hiện triết học, nghệ thuật, thi ca…, những loại hình ý
thức đánh dấu sự tồn tại của đời sống tinh thần của con người, vượt lên thời
gian và cái chết. (Về điều này, tôi lại nhớ đến câu nói nổi tiếng của một nhà
triết học: tôi tư duy vậy tôi tồn tại. Thơ, với Trương Đăng Dung, xét đến cùng bản
chất của nó, hẳn nhằm để bộc lộ sự suy tư đó. Hơn thế, thơ còn chính là trạng thái suy tư đó. Ở điểm này, ta
thấy rất rõ sự giao thoa, gặp gỡ giữa một Trương Đăng Dung – nhà nghiên cứu, lí
luận và một Trương Đăng Dung – thi sĩ). Suy tư về sự vô hạn của thời gian, sự phù
du và bất trắc của phận người, không phải là để yếm thế buông tay mà để biết đối
diện với nó bằng một thái độ tỉnh táo: một mặt không ảo tưởng dễ dãi, mặt khác
vẫn biết gạn lọc, nâng niu những giá trị của vĩnh cửu trong cái thoáng chốc của
đời người. Sự suy tư ấy cho thấy con người không chỉ tồn tại như một đối tượng
bị động mà như một chủ thể tự do, tự tại, biết chủ động ngay trong thế bị động.
Và phải chăng đó mới chính là một thái độ “hiện sinh trung thực”? Vinh, ngày 12/9/2011
* Dẫn ra từ các bài viết:
1. Trần Anh Thái, Một bài thơ ám ảnh, www.vanchuongviet.org
2. Đỗ Quyên, Tái ám ánh về một bài thơ ám ảnh, www.vanchuongviet.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét