Vào những năm 80 của thế kỉ XX, nhiều
nhà văn thuộc thế hệ chống Mỹ đã nhanh chóng bứt ra khỏi từ trường của “khoảng chân
không văn học” (Nguyên Ngọc) để tiếp tục dấn bước. Không hẹn mà gặp,
trong sáng tác của nhiều tác giả thuộc thế hệ này, tiêu biểu như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải,
Nguyên Ngọc, Lê Lựu, Chu Lai, Lê Minh Khuê…, cảm hứng sử thi dần được thay thế bằng cảm hứng thế sự với nhãn quan hiện thực ngày càng đa chiều, sâu sắc. Như
nhiều cây bút cùng thế hệ, Lê Minh Khuê không ngần ngại bám sát vào những ngõ
ngách của hiện thực thời hậu chiến, nhất là ở những mặt trái, góc khuất của nó.
Trong truyện ngắn của bà, ta bắt gặp rất nhiều tin tức, sự kiện như được “cắt”
ra từ các mẩu tin trên báo chí hàng ngày. Nhưng từ những “chất liệu thô” của
thời cuộc, nhà văn biết cách gạn lọc và “nâng cấp” lên thành những vấn đề nhân
sinh đáng suy ngẫm. Đằng sau những thông tin sự vụ, bà nhìn thấy những câu
chuyện về cuộc sống con người, những giá trị đạo đức, tinh thần của một thời đại, một xã hội.
Có thể nói, đọc truyện ngắn của Lê Minh Khuê, ta được cung
cấp một bức tranh hiện thực đầy chi tiết sinh động, nồng nã vị khốn
khó, cơ cực khi đất nước chuyển từ thời chiến sang thời bình, từ thời cơ chế quan
liêu bao cấp sang thời mở cửa thị trường. Hiện diện trong các trang viết của bà là sự đảo lộn gay gắt của các thang bậc giá trị, sự áp đảo kinh hoàng
của cái xấu, cái ác cũng như sự “lép vế” của những giá trị tinh thần – đạo đức giữa
một xã hội thực dụng, cằn cỗi nhân tính. Đấy là một đời sống mà những mối quan
hệ gia đình, xã hội chỉ như những sợi dây ràng buộc lỏng lẻo, đời sống áo cơm
ghì người ta đến sát đất, con người không còn liêm sỉ, lòng tự trọng, và nếu
có, nó chỉ khiến người ta chua xót hơn vì sự bất lực và thảm hại của chính
mình. Đấy là một đời sống mà trong đó, cha con, anh em sẵn sàng giết nhau vì
tiền; cha đẻ có thể bán con ruột vì nghiện hút; quan chức tham nhũng, trác
táng, kẻ mang danh trí thức kì thực chỉ là những kẻ hèn đớn, háo danh, trì độn…
Như cái bóng ghê sợ lừng lững ám ảnh trong nhiều trang viết của Lê Minh Khuê là
những kẻ bất thành nhân dạng, đại diện cho một não trạng tinh thần mông muội,
thấp kém và hung hãn. Bị
chi phối bởi hoàn cảnh, phần đông con người trở nên bế tắc mệt mỏi, đánh mất
niềm tin vào những giá trị tốt đẹp. Họ trở nên thờ ơ, vô trách nhiệm hoặc tham
lam, bần tiện, giả dối, trở thành “đám đông ngu muội”. Trong sự đối
chiếu giữa thời chiến và thời bình, tác giả bộc lộ một sự thức nhận khá rạch
ròi. Một mặt, bà chỉ ra sự đổi thay theo hướng xấu đi của con người trong thời
hậu chiến, đặc biệt ở các đô thị, nơi mà tác động của kinh tế thị trường hiện
lên trước hết và rõ rệt nhất. Nhưng mặt khác, bà không tô vẽ quá khứ. Chiến tranh chủ yếu được mô tả từ góc nhìn thế sự, đời tư và việc đặt quá khứ ấy trong tương quan đối lập với hiện tại là nhằm để rút
ra những bài học nhận thức tỉnh táo, cần thiết cho hiện tại. Cũng chính ở đây,
cảm hứng thế sự đã gắn liền với một cảm hứng mới: nhìn thẳng vào sự thật, nhận
chân lại các giá trị.
Xuyên suốt truyện ngắn Lê Minh Khuê là hình
tượng những con người bế tắc và bất lực. Họ ý thức sâu sắc về cuộc sống tồi tệ
đang phải chịu đựng nhưng không có cách gì thoát ra được. Đau đớn bởi sự tối
tăm, cùn mòn và khát khao thay đổi, nhưng họ biết rõ hơn ai hết về sự bất
lực, vô vọng của đời mình. Cơn mưa cuối mùa kể về một mối tình “sét
đánh” của Mi, một nữ kĩ sư đã có chồng con, với một đồng nghiệp, cũng đã có gia
đình, trong một chuyến công tác trên công trường xây dựng. Nhưng tác giả không
mô tả cuộc ngoại tình này dưới góc độ đạo đức.
Được nhìn nhận dưới góc độ nhận thức, nó trở thành một “phép thử” để qua đó,
con người có cơ hội để kiểm chứng lại giá trị, ý nghĩa đời mình. Mối tình ấy
chỉ tồn tại vừa đủ để soi sáng cuộc sống vất vả, đơn điệu của nhân vật Mi, làm
dấy lên những khát vọng sống tưởng đã tắt vì những lam lũ lo toan của cô, nhưng
đồng thời nó cũng bóc trần những ảo tưởng của cô về bất kì một cuộc kiếm tìm
nào khác. Tiếng khóc của nhân vật quả thực nói lên nhiều điều: “Em không thể làm gì được nữa. Mọi thứ đã
xong xuôi rồi”. Cái quán tính sống ấy sẽ không thay đổi, không có cách gì
thay đổi. Rốt cục thứ tình cảm “ngoài luồng” ấy chỉ phản chiếu rõ nét hơn cuộc
sống khắc nghiệt, mệt mỏi, cả những ảo tưởng lẫn sự bất lực của con người. Trong
Thằn lằn, bằng một giọng điệu hài hước và chua xót, nhà văn đã chạm được
đến cái đáy sâu tuyệt vọng và nỗi khốn cùng của con người trong một đời sống nghèo
kiệt, tăm tối về vật chất lẫn tinh thần: “Gã
cất tiếng khóc hu hu. Gã khóc như con chó tru giữa đêm. Gã cũng chả trách móc
gã, cũng chả giận nàng. Cái số của gã nó như vậy. Gã biết gã là giun dế trong
đám giun, nhưng gã vẫn tủi lắm”,… Quá khứ hiện lên như một cuốn phim quay
chậm, với một ý thức ngậm ngùi của nhân vật về “cái thời ngày xưa”, khi anh ta thấy mình “có đến nỗi nào. Chả đến nỗi dị mọ như bây giờ”. Nhưng sau cơn phẫn uất đến mức suýt tự sát, rốt cục, nhân vật lại “lọ
mọ” cho cái cà vạt (định dùng để tự sát – chú thích của L. H. Q.) “vào túi ni lông. Để vào giữa cuốn sổ, đóng
cái rương, cài móc sắt, đẩy cái rương vào chỗ cũ” với “hai thúng khoai để lên cái rương”. Cũng vậy, mối tình thời chiến
trận đầy lãng mạn và hào hùng giữa Thắng và Cúc trong Dạo đó, thời chiến tranh rốt cục cũng bị những nhỏ nhen tàn nhẫn
của đời thường nghiền nát. Người anh hùng của thời chiến trở trở nên “bạc nhược”, “chỉ biết than thở uống rượu”, trở nên “khùng khùng”. Những ảo tưởng về một tình yêu thăng hoa bị vùi dập
thảm hại. Kết thúc là một sự thất vọng bao trùm: “Trời ơi, biết thế này thì mơ mộng làm gì? Khổ thân cho những kẻ mơ
mộng”. Điều đáng nói thêm là sau tất cả những giãy giụa để tìm kiếm lối
thoát, rốt cục nhân vật Cúc (cũng như phần lớn kiểu nhân vật phản tỉnh này trong văn Lê Minh Khuê) lại
“chạy vào cái cối xay đã xay nát tình yêu
của họ”.
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở chủ đề sự tàn nhẫn của đời sống và bi kịch
tha hóa của con người, e rằng những nhân vật của Lê Minh Khuê khó lòng vượt qua
được những Điền, Hộ, Thứ, San… trong truyện ngắn Nam Cao (hoặc một số nhân vật
điển hình trong truyện của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng,… trước đó). Chân dung những Mi, Thắng, Cúc, anh
giáo làng… ở đây vừa có nét gần gũi với các nhân vật của chủ nghĩa
hiện thực vừa có những đặc điểm tính cách, tinh thần riêng, hình thành trong bối cảnh khắc nghiệt của thời hậu chiến. Đó là khi bước ra khỏi chiến tranh, con người phải đối mặt với một thực tế không
hề lí tưởng như mong đợi, ngược lại, nhem nhuốc, bệ rạc, thậm chí thảm hại. Sự thất vọng, nỗi đau đớn, vật vã của nhiều nhân vật là kết quả của ý thức “tra vấn lịch sử” khá rạch ròi, thậm chí nghiệt ngã.
Con người với
những “chấn thương” lịch sử, do vậy, cũng là hình tượng khá nổi bật trong nhiều truyện ngắn của Lê Minh Khuê giai đoạn sau 1986. Trong
nhiều truyện, ám ảnh của chết chóc, mất mát, ly tán gây ra bởi chiến tranh rất rõ (Một chiều xa thành phố, Cơn mưa cuối mùa, Một ngày đi trên đường, Bi
kịch nhỏ, Biển mịt mù…). Những chấn thương ấy
vẫn tiếp tục ngay cả khi cuộc chiến trên thực tế đã dừng lại. Ga xép, Biển mịt mù hay Một buổi chiều thật muộn viết về những vết
thương tinh thần như vậy. Cái trạng thái đời sống được mô tả trong những câu chuyện này đã
đạt đến giá trị biểu tượng rất đáng kể. Đó là trạng thái mà ở
đó, con người luôn sống trong nỗi sợ hãi mơ hồ nhưng triền miên, dai dẳng. Nó tạo
nên sự khiếp nhược, cảm giác bất lực, khiến người ta chỉ muốn chối bỏ, muốn trốn chạy. Hình ảnh “bức tường cao ken đầy mảnh chai bên trên giằng dây thép gai” trong ngôi nhà “sặc sỡ kiểu cách kì quặc”
và giấc mơ hằng đêm của ông già cô độc là một
hình ảnh mang tính tượng trưng như vậy. Thông qua dòng chảy kí ức miên man như cơn mộng du của nhân vật,
lịch sử, chiến tranh, quá khứ, thực tại,… giao thoa, đồng hiện,
gợi nên nhiều chiều kích hiện thực. Sau tất cả những giấc mơ và ám ảnh, chỉ còn lại một đời sống thô lậu, nhếch nhác, hãi hùng mà con người càng cố lùi xa, cố
thoát ra, lại cứ bị cuốn vào. Hai bờ, Biển
mịt mờ hoặc Một buổi chiều thật muộn
cũng là những truyện ngắn giàu tính tính nhân sinh - tư tưởng dẫu rằng nó chỉ
chớp lại một tình huống tưởng chừng rất bình thường: chuyện tình yêu. Một tình
yêu bình thường trong những thời đoạn lịch sử không bình thường. Và do đó, con
người mãi mãi bị cầm tù trong những ám ảnh quá khứ đau đớn, mãi mãi không thể thổ lộ, chia sẻ. Hiện lên
trong nhiều truyện của Lê Minh Khuê là một hiện thực bất thường trong chính sự (như là) bình thường, nó gợi nên cảm giác đe doạ, bất an và đầy thương tổn.
Chi phối trong sáng tác
thời kì đầu của Lê Minh Khuê là một cái nhìn trong sáng, hồn nhiên, mang tính lí tưởng về đời sống và con người. Tuy nhiên trong các sáng tác về sau của bà, đặc biệt là
sau 1986, thay cho nhãn quan lí tưởng hóa ấy là một cái nhìn hiện thực tỉnh táo, đậm tính
phê phán. Không phải ngẫu nhiên mà hiện lên trong nhiều trang viết của bà ở thời kì hậu chiến và Đổi mới là một đời sống nghiệt ngã, trong đó, con người đánh mất niềm tin
về bản thân, về sự tốt đẹp của cuộc đời, trở nên bất lực, nhu
nhược, cam phận, luôn luôn lo sợ. Khi niềm tin vào các giá trị bị phá huỷ, mọi thang chuẩn đạo đức bị đảo lộn, xã hội sẽ lan tràn cái xấu, cái ác. Cũng không ngẫu nhiên mà truyện ngắn của Lê Minh Khuê nói nhiều đến lối hành xử côn đồ,
tàn nhẫn giữa con người với con người. Một não trạng tinh thần đáng sợ. Bi kịch nhỏ là một ví dụ. Từ góc nhìn
của người cháu, một nữ phóng viên, về người bác ruột của mình, vốn là một cán bộ cấp
cao trong bộ máy chính quyền nay đã nghỉ hưu, tác phẩm đặt ra nhiều vấn đề,
chẳng hạn sự duy ý chí trong quản lí xã hội, sự trả thù cá nhân tàn độc nấp sau
những chiêu bài chính trị, sự trớ trêu của đời sống hay là sự trả thù tàn khốc
của số phận... Trên thực tế đấy không chỉ là bi kịch của cá nhân mà còn là bi kịch của xã hội và lịch sử. Con người đối mặt với số phận kì
thực là đối mặt với tội ác và sự tàn độc của chính mình.
Tuy cảm hứng phê phán khá đậm nét nhưng trong văn xuôi của Lê Minh Khuê dường
như bao giờ cũng có cái gì đó níu giữ con người đứng lại bên bờ vực tuyệt vọng. Những giọt nước mắt của Mi
trong Cơn mưa cuối mùa, Bình trong Biển mịt mù, hay của ông Lăng trong Ga xép,… chẳng hạn. Vượt ra khỏi ý
nghĩa phản ứng tâm lí thường tình, chúng là dấu hiệu của những tâm hồn giàu
trắc ẩn và chưa bị đời sống thực dụng làm cho chai đá, cỗi cằn. Đấy còn là biểu
hiện của sự nhạy cảm trước những vẻ đẹp của cuộc đời, của con người. Là khát
khao đồng cảm, chia sẻ, vượt lên những biên giới cách ngăn, thù hận. Trong
nhiều truyện khác, nhà văn còn nói đến nỗi khao khát và xúc động trước những
không gian “trời đất bao la sạch sẽ”,
“nước sạch cỏ xanh” và sự “cao lớn”, “đường
hoàng”, “tử tế” của con người. Những rung động, khát khao và cả những nỗi
đau ấy là những xúc cảm đẹp đẽ, đầy nhân tính. Như những giọt dung
dịch trên giấy quỳ, chúng cho thấy những sắc thái tinh thần phức tạp của con
người và sẽ không dễ cắt nghĩa, lí giải nếu chỉ nhìn theo một chiều giá trị.
Một nhân vật trong Cơn mưa cuối mùa
đã cảm thán: “Giẫy giụa, chả có ích gì
đâu các bạn ơi!”. Dù vậy, có lẽ tự thân sự “giãy
giụa” ấy cũng nói lên một điều gì đó ngoài sự khốn khổ. Thực ra, nhân vật được mô tả trong các tác phẩm này đâu thiếu sự thông minh.
Ngược lại, chính vì thông minh và nhạy cảm, họ nhận ra rất rõ sự thiếu vắng của
tình yêu và khát vọng trong đời họ, sự cùn mòn, hoen gỉ trong tâm hồn
họ, sự tầm thường, ô trọc của cuộc sống mà họ đang hít thở. Nhưng cũng vì thông
minh và nhạy cảm nên họ nhận ra rất rõ những giới hạn không thể vượt qua,
những ràng buộc không thể phá bỏ. Bởi vậy, vùng lên phá vỡ cuộc
sống cũ đã vô vị đến phát ngấy thì không đủ can đảm nhưng cứ tiếp tục cam chịu thì đau khổ, dằn vặt. Con người làm sao có thể phút chốc xóa bỏ mọi
mối dây rợ trách nhiệm, nghĩa vụ ràng buộc quanh mình, cả những thói quen, dù
là nhàm chán, vô vị? Nhà văn đã không xây dựng một kết thúc có hậu dễ dãi. Sự chấp nhận, cam chịu “buông xuôi” của nhân vật tạo nên
nỗi buồn nản thấm thía, nhưng đồng thời cũng cho thấy nhà văn đã vượt qua cái nhìn đơn giản, một chiều về hiện thực và con người.
Từ cái nhìn lạc quan, trong sáng và mang
tính lí tưởng buổi đầu đến một cái nhìn gai góc, đậm chất phân tích sau này là
cả một bước chuyển trong quan niệm, nhận thức về hiện thực của Lê Minh Khuê. Nhiều truyện ngắn của bà là những phức hợp chủ đề, có khả năng bao quát và gợi ra
nhiều suy ngẫm về đời sống (Ga
xép, Một buổi chiều thật muộn, Biển mịt mờ, Hai bờ, Cơn mưa cuối mùa, Một ngày
trên đường…). Điểm nhìn, ngôi kể cũng như ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật của tác giả cũng trở nên uyển chuyển và
linh hoạt. Chẳng hạn, trong Cơn mưa cuối mùa, những giọt nước mắt
của Mi được nhìn nhận và giải thích ít nhất từ ba góc độ: góc nhìn của anh
chàng chơi đề thực dụng, nước mắt chỉ còn chảy khi thua đề; góc nhìn của nhân
vật Tôi – người kể chuyện, một người từng sống qua chiến tranh, đủ từng trải và
độ lượng để chia sẻ nhưng không còn nhiều khao khát và hy vọng về đời; và cuối
cùng là góc nhìn của chính nhân vật Mi về bản thân mình, thể hiện qua sự tự
phân tích nội tâm bằng một giọng điệu vừa giễu cợt vừa riết róng, nghiệt ngã.
Xuất phát từ những bảng giá trị hoàn toàn khác nhau, thậm chí, đối lập gay gắt,
những giọt nước mắt cũng như tâm sự của nhân vật hiện lên vừa đáng thương, vừa
đáng buồn, lại vừa như một chuyện hài hước, tức cười. Sắc thái bi kịch (có thể
sẽ khá ướt át và …mùi mẫn, nặng nề, nếu tác giả khai thác câu chuyện theo một
hướng khác) đã được “điều chỉnh” kịp thời nhờ sự phối hợp khéo léo những điểm
nhìn khác biệt nói trên, kết hợp với sự “đa thanh” trong ngôn ngữ, giọng điệu
nhân vật và người kể chuyện. Để diễn tả sự những diễn biến nội tâm phức tạp của
nhân vật, tác giả đã sử dụng hình thức những câu đối thoại giữa hai nhân vật
(người kể chuyện xưng “tôi” và Mi) rất đặc biệt, như là lừng khừng, ông chẳng
bà chuộc, chẳng đâu vào đâu. Nhưng chính độ “vênh” giữa bề mặt của lời thoại
với cái cảm xúc nghẹn ngào cố nén bên trong ấy đã “nói” nhiều hơn so với việc
kể lể dài dòng. Và cũng nhờ vậy mà vượt lên chủ đề về một câu chuyện ngoại tình
và tâm sự buồn chán của một người đàn bà không thỏa mãn trong đời sống riêng,
truyện ngắn này đã chạm đến một trạng huống nhân sinh có tính phổ quát và đánh
động nỗi ưu tư trong nhiều người đọc. Giọng giễu nhại, hài hước (gọi các nhân
vật bằng các từ như chàng, nàng…),
cách nhập vai, nhập giọng nhân vật (nhất là giọng điệu, ngôn ngữ “phố phường” của
các nhân vật phản diện), cách dùng từ thô, sỗ, cách nói ngược… cũng là một
trong những yếu tố đem lại cảm giác thú vị khi đọc truyện của Lê Minh Khuê. Nhưng
trong một số truyện khác, đôi khi liều lượng “hiện thực phố phường” trong văn
của bà bị đẩy đi quá đà. Một số truyện ngắn thời hậu chiến của bà đi sâu vào
khai thác những mặt trái đời sống với tất cả những nhếch nhác, bần tiện của nó để
lại những ấn tượng sâu sắc ở những chi tiết tả thực, chẳng hạn Ngỗng non, Sân gôn, Làn nước dịu dàng… Tuy nhiên, sự sắc sảo của nhà văn ở đây vẫn đang
nằm trên bề mặt các chi tiết tả thực, đôi khi hơi nệ thực, chứ chưa “nhấc bổng”
được hiện thực lên, biến chúng thành các hình tượng giàu tính tư tưởng – khái
quát hơn. Dường như có một sự “chênh chao” nào đó bên trong ngòi bút này, khi
tác giả phải đứng giữa sự lựa chọn một bên là cái khao khát chuyển tải tư tưởng
về đời sống (luôn phải khái quát và cô đọng hơn), và một bên là yêu cầu phải xử
lí một hiện thực lấm láp, xô bồ, bề bộn mà chi tiết nào cũng tươi mưởi, cũng “ánh
lên roi rói”, đòi hỏi phải được có mặt trong tác phẩm.
Không ngần ngại “thọc tay” vào những góc cạnh dữ dằn, gai góc của đời sống, kêu
gọi sự tỉnh táo nhận thức, nhìn thẳng sự thật, bóc trần ảo tưởng, Lê Minh Khuê
đã đặt ra một cách trực diện nhiều vấn đề thiết cốt của đời sống đương đại. Nhiều
truyện ngắn của tác giả này hấp dẫn người đọc bởi tính thời sự của những vấn đề
xã hội đặt ra, sự tinh tế trong việc diễn tả tâm lí, cái nhìn hài hước mà chua
xót về các trạng huống đời sống, sự sinh động của những chi tiết mô tả… Truyện
của Lê Minh Khuê là sự phẫn nộ của lương tri con người trước những giá trị đạo
đức bị hạ cấp, đảo lộn. Trong một số truyện, nhà văn có lúc “quên khuấy” vai
trò người kể khách quan để buột miệng kêu lên, thậm chí “thét lên” đầy bức xúc
trước “những điều trông thấy”,… Đằng sau cái hiện thực xô bồ được
mô tả với không ít trào lộng và chua xót là một tinh thần “nhập cuộc” hăng
hái, niềm thiết tha đối với các giá trị đạo đức, xã hội của tác giả. Có thể khẳng định, truyện ngắn của Lê Minh Khuê luôn cho thấy diện mạo tinh thần của một nhà văn đầy trách nhiệm với đời sống, nặng
lòng với những giá trị đạo đức, nhân văn cội rễ, dứt khoát, mạnh mẽ nhưng chân thành, nồng hậu.
Vinh, 23/7/2011
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Nguyễn
Văn Long, Lã Nhâm Thìn đồng chủ biên (2006), Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy,
Nxb Giáo dục.
2.
Lê
Minh Khuê (1999), Trong làn gió heo may,
Nxb Văn học.
3.
Lê
Minh Khê (2006), Màu xanh man trá,
Nxb Phụ nữ.
4.
Lê
Minh Khuê (2006), Một mình qua đường,
Nxb Hội nhà văn.
5.
Lê
Minh Khuê (2008), Những ngôi sao, trái
đất, dòng sông, NXB Phụ nữ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét