Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2019

Vấn đề gắn kết trường đại học với trường phổ thông


TĂNG CƯỜNG GẮN KẾT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VỚI TRƯỜNG PHỔ THÔNG
ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN
                                                                                     
                                                                                                    Đặng Lưu –  Lê Hồ Quang
Khoa SP Ngữ văn, Trường Đại học Vinh

TÓM TẮT
Hiện nay, chất lượng đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục Việt Nam. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân, trong đó, có khâu đào tạo ở các trường, khoa sư phạm. Để có thể nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên, các trường, khoa sư phạm cần tăng cường gắn kết với trường phổ thông. Mặc dù từ trước đến nay, trường, khoa sư phạm thường gửi sinh viên về kiến tập, thực tập, nhưng mối quan hệ như vậy vẫn mang tính đơn tuyến, một chiều, thiếu sự tương tác, do vậy, tác dụng chưa được như mong muốn.
            Để tăng cường mối quan hệ giữa trường đại học và trường phổ thông nhằm nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên, cần khẩn trương thực hiện một số biện pháp. Thứ nhất, cơ quan chủ quản ngành giáo dục phải có văn bản quy định trách nhiệm, quyền lợi của các bên, đề xuất chế độ kinh phí hợp lý cho giáo viên phổ thông tham gia hướng dẫn sinh viên. Thứ hai, thời gian thực tế, thực tập nghề của sinh viên cần sớm hơn, dài hơn, sinh viên có mặt ở trường phổ thông thường xuyên hơn. Thứ ba, giảng viên bộ môn phương pháp phải đến các trường để cùng giáo viên phổ thông đánh giá kết quả thực tập của sinh viên. Thứ tư, trường, khoa sư phạm phải thường xuyên cập nhật những thay đổi chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học ở phổ thông để điều chỉnh chương trình đào tạo cho phù hợp. Cuối cùng, giảng viên phải thực sự đổi mới quan niệm, cách thức dạy học, cách kiểm tra đánh giá, chú trọng khâu thực hành, gắn với thực tiễn dạy học ở phổ thông. Các biện pháp trên đây phải được tiến hành đồng bộ thì mới có tác dụng nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên.



ENHANCING THE CONNECTION BETWEEN UNIVERSITIES AND HIGH SCHOOLS TO IMPROVE THE QUALITY OF TEACHERS TRAINING

               In recent years, the quality of teaching staff has not met the requirements of comprehensive reform of education in Vietnam. This situation results from a variety of reasons, including training activities in pedagogical departments in universities. In order to improve the quality of teacher training, pedagogical departments need to strengthen connection with high schools. Although pedagogical students are always sent to high schools as internships, there exist  inadequate interaction between universities and high schools which lead to some unexpected consequences.
               To improve the quality of teachers training as well as enhance the relationship between universities and high schools, several suggested solutions are proposed. First of all, the Ministry of Education and Training has to promulgate circulars about responsibilities and interests of both sides, then proposes a reasonable budget for teachers who guide pedagogical students. Secondly, internship time for students should be lengthened and well- prepared; at the same time, internship students  are expected to have  frequent attendance at school. Thirdly, lecturers of methodology subject have to coordinate with high school teachers to appraise the results of the practicing process of pedagogical students. Furthermore, pedagogical departments in universities must update changes of programs, textbooks and methodology suitably, therefore have an appropriate adjustment. Lastly, lecturers have to focus on issues such as innovation of concepts, teaching methods, assessment methods, and the practicality of teaching in high schools. The measures mentioned above must be implemented synchronously in order to improve the quality of teacher training.

            I. ĐẶT VẤN ĐỀ
            Trong việc đổi mới nền giáo dục quốc gia, đội ngũ nhà giáo đóng vai trò quyết định cho sự thành công. Hễ ai quan tâm đến lĩnh vực giáo dục đều dễ dàng nhận ra điều đó. Việc cập nhật thông tin về các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới hiện nay giúp ta có điều kiện đối sánh và thấy rõ tình trạng đáng lo ngại trong đào tạo ngành sư phạm cũng như chất lượng giáo viên ở Việt Nam. Gần đây, chủ đề này đã làm nóng các diễn đàn. Nhiều người chỉ ra một “chùm” nguyên nhân dẫn đến thực trạng nêu trên. Chất lượng đầu vào thấp. Chương trình đào tạo chủ yếu cung cấp tri thức, chưa chú ý phát triển năng lực sư phạm của người học. Khâu rèn nghề chưa đảm bảo yêu cầu khiến người học thiếu các kỹ năng cần thiết mà thực tế đòi hỏi. Sinh viên không có động lực học tập vì khó tìm việc sau khi ra trường. Đời sống của giáo viên căn bản là khó khăn, không có sức hấp dẫn đối với người học sư phạm. Tâm lý thực dụng của con người trong nền kinh tế thị trường...
            Do sự chi phối của một chuỗi nguyên nhân, cho nên vấn đề chất lượng ngành sư phạm cần phải được giải quyết đồng bộ. Bên cạnh những khâu thuộc trách nhiệm của người học, của xã hội, của các nhà quản lý vĩ mô, những người hoạch định chính sách, có một “phân khúc” quan trọng thuộc chức trách của các cơ sở đào tạo. Ở “phân khúc” này, có ba điểm mấu chốt cần tập trung giải quyết: phải có một chương trình đào tạo sát yêu cầu thực tiễn, phải có một đội ngũ giảng viên đủ trình độ, tâm huyết với nghề, và cuối cùng phải có sự gắn kết chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo sư phạm với các trường phổ thông để người học được rèn nghề một cách thực chất, có hiệu quả.
            Ngày nay, liên kết với doanh nghiệp là một nhân tố đảm bảo sự sống còn của mô hình đại học hiện đại. Chỉ có liên kết, sản phẩm đào tạo của nhà trường mới đáp ứng ở mức cao những đòi hỏi của nhà tuyển dụng trong môi trường cạnh tranh quyết liệt. Chỉ có liên kết, nhà trường mới luôn luôn có điều kiện tự soi lại mình, nhận ra những chỗ bất cập so với yêu cầu thực tế để thường xuyên điều chỉnh chương trình và cách thức đào tạo.
            Ngành sư phạm ở các trường đại học không thể tự cho phép mình đứng ngoài bối cảnh đó.
            II. NỘI DUNG
            1. Thực trạng mối quan hệ giữa trường đại học với trường phổ thông trong đào tạo giáo viên hiện nay
            Trong chương trình đào tạo giáo viên, ngoài các học phần cơ sở ngành và chuyên ngành, có một số học phần thuộc về nghiệp vụ sư phạm. Đó là Tâm lý học, Giáo dục học, Phương pháp dạy học bộ môn. Bên cạnh tri thức lý thuyết, những học phần này còn có nội dung rèn luyện năng lực nghề nghiệp thể hiện qua hoạt động kiến tập và thực tập sư phạm.
            Trước hết, phải nói ngay rằng, việc đào tạo ngành sư phạm ở Việt Nam, thời gian dành cho sinh viên thực tập còn quá ít. Xin lấy ví dụ từ trường Đại học Vinh: trong tổng số 132 tín chỉ của khung chương trình, thực tập giảng dạy ở phổ thông chỉ có 5 tín chỉ, chiếm gần 3,8%, trong khi ở Phần Lan, sinh viên phải thực hành dạy ở phổ thông là 40 tín chỉ. Người ta quy định: “Trong đào tạo giáo viên bộ môn, thời lượng thực hành dạy ở các trường phổ thông chiếm khoảng một phần ba chương trình học” [8, tr. 237]. Những số liệu trên đặt bên cạnh nhau, tự nó đã nói lên nhiều điều.
            Cách tiến hành lâu nay của chúng ta là trường đại học lên kế hoạch, liên hệ với các Sở Giáo dục và Đào tạo, từ đó có được danh sách những trường phổ thông sẽ tiếp nhận đoàn kiến tập/ thực tập. Dựa trên danh sách đó, Trường yêu cầu các khoa phân công sinh viên về các trường phổ thông theo chỉ tiêu đã được ấn định. Mỗi đoàn kiến tập/ thực tập gồm sinh viên đủ các khoa, sẽ đến một trường nào đó theo phân công. Đã có một thời, trường đại học cử giảng viên phụ trách đoàn thực tập, phối hợp với trường phổ thông để giải quyết những vụ việc nảy sinh cũng như tham gia đánh giá sinh viên. Nhưng đó là câu chuyện của quá khứ. Hiện nay, nhiệm vụ quản lý đoàn thực tập được giao cho đội ngũ cán bộ là sinh viên, do nhà trường cử trên cơ sở đề xuất của các khoa.
            Trong thời gian làm việc ở trường phổ thông, sinh viên phải tìm hiều môi trường giáo dục, thực hành một số hoạt động trong tư cách người giáo viên như chủ nhiệm lớp, dạy học theo chương trình, các hoạt động ngoài giờ... Nếu là kiến tập, sinh viên phải có sản phẩm hoàn thành trong quá trình hoạt động ở trường phổ thông và viết bài thu hoạch để giảng viên phụ trách học phần đánh giá. Nếu là thực tập, trường sở tại sẽ phân công giáo viên hướng dẫn và đánh giá kết quả các hoạt động của sinh viên.
            Với cách làm như vậy, trường phổ thông chỉ đóng vai trò là “đơn vị sản xuất”, người học được đến để trải nghiệm nghề nghiệp. Sự trải nghiệm diễn ra ở những mức độ khác nhau. Là kiến tập thì sinh viên chỉ dừng lại ở quan sát, tìm hiểu và tham gia vài hoạt động của lớp học, của nhà trường. Là thực tập thì sinh viên được trực tiếp tham gia sâu hơn vào một số hoạt động của trường như làm chủ nhiệm lớp, dạy học. Dù không “khoán trắng” cho sinh viên (vì Trường, Khoa có tổ chức các đợt kiểm tra cũng như tổng kết cuối đợt thực tập), nhưng xem ra quan hệ giữa trường đại học và trường phổ thông theo kiểu đó vẫn mang tính chất đơn tuyến, một chiều, chưa có sự tương tác. Rốt cuộc, chất lượng học nghề, rèn nghề của sinh viên sư phạm chủ yếu vẫn phụ thuộc vào các hoạt động diễn ra trong khuôn viên của trường đại học. Thực trạng này đã được nhiều người nhận thấy và phản ánh trên một số diễn đàn [2], [6], [7], [9].
            Hằng năm, tại các cuộc tổng kết thực tập, cán bộ quản lý và giáo viên ở các trường phổ thông thường phàn nàn tình trạng sinh viên non yếu về kỹ năng sư phạm. Đó là một thực tế mà các giảng viên dạy phương pháp đều nhận thấy. Tuy nhiên, một khi việc đào tạo vẫn nặng về lý thuyết, một khi sinh viên chỉ được tiếp xúc với môi trường phổ thông ít ỏi như bấy lâu nay, thì tình trạng nêu trên khó mà cải thiện. Việc tập giảng được tiến hành định kỳ theo yêu cầu của các học phần phương pháp, dù được hướng dẫn bởi những giảng viên giàu kinh nghiệm, nhưng kiểu “lớp học mô phỏng” do sinh viên đóng cả vai giáo viên lẫn vai học sinh để tập tành hoàn toàn khác xa với một lớp học sinh động trong thực tế ở trường phổ thông. Không được thâm nhập thường xuyên vào môi trường đó, việc rèn nghề ở giảng đường đại học không khác gì “múa cho nhau xem, hát cho nhau nghe” trong phòng tập. Khi đứng trước cái “sân khấu hoành tráng” là lớp thực, trường thực, đòi hỏi phải có những hoạt động đa dạng, phong phú, phải giải quyết những mối quan hệ phức tạp, với vốn kỹ năng “phòng tập” còn quá ít ỏi như vậy, tất yếu sinh viên sẽ rất lúng túng.
3. Một số về biện pháp xây dựng mối quan hệ gắn kết giữa trường đại học và trường phổ thông trong đào tạo giáo viên
3.1. Trước hết, để tạo nên mối quan hệ gắn kết giữa trường đại học có đào tạo ngành sư phạm với trường phổ thông, theo chúng tôi, cần xác định rõ bản chất của mối quan hệ cũng như vai trò, trách nhiệm, quyền lợi của mỗi bên trong mối quan hệ này. Trên thực tế, như đã phân tích, sự phối hợp, gắn kết giữa trường đại học và phổ thông chủ yếu theo “thời vụ”, nghĩa là khi nào có học phần kiến tập hay thực tập, trường đại học mới “nhờ” trường phổ thông “giúp đỡ”. Mối quan hệ như vậy là khá là lỏng lẻo, manh mún, không hề có sự ràng buộc.
Kinh phí chi trả cho hoạt động hướng dẫn thực tập dường như chỉ mang tính “tượng trưng” và cũng không thống nhất ở các cơ sở đại học. Việc không có một cơ chế làm việc đồng bộ với những quy định trách nhiệm và quyền lợi về cụ thể, rõ ràng khiến sự phối hợp giữa hai bên gặp không ít vướng mắc. Trường đại học thì lâm vào thế phải “cậy nhờ” trường phổ thông, còn trường phổ thông thì lâm vào thế “bị làm phiền’, “buộc phải giúp đỡ”. Việc có nhận đoàn thực tập hay không tùy vào “hảo tâm” của lãnh đạo nhà trường. Có những trường thẳng thừng từ chối. Vì là quan hệ “cậy nhờ”, cho nên cả hai bên đều không xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ cũng như quyền lợi của mình. Về phía trường phổ thông, một khi việc đào tạo giáo viên - nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định sự hưng thịnh của xã hội – mà bị đặt vào một cái thế “phải giúp” miễn cưỡng, bị động như vậy thì hiệu quả của nó đến đâu, chắc không cần nói thêm.
Nếu xét về lợi ích toàn cục, mối quan hệ giữa trường đại học và trường phổ thông phải là mối quan hệ hợp tác, cộng sinh. Theo quan niệm hiện đại, trường đại học sư phạm là cơ sở sản xuất “sản phẩm” đặc biệt (giáo viên), chịu trách nhiệm về sản phẩm này trước thị trường lao động, trước đơn vị tuyển dụng. Trường phổ thông là đơn vị “đặt hàng” cũng là đơn vị tuyển dụng và trực tiếp kiểm nghiệm chất lượng giáo viên - sản phẩm đào tạo của trường đại học. Trường phổ thông sẽ được hưởng lợi từ những “sản phẩm” đạt chất lượng cao (những giáo viên có trình độ, năng lực, phẩm chất tốt); ngược lại, nếu “sản phẩm” bị lỗi (những giáo viên yếu kém về các mặt) thì nơi trực tiếp phải hứng chịu hậu quả cũng là trường phổ thông. Bởi vậy, việc xây dựng mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó giữa trường đại học và trường phổ thông trong việc đào tạo giáo viên không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ mà còn xuất phát từ quyền lợi thiết thực của cả hai bên.
Lý thuyết là như vậy, nhưng trên thực tế còn có nhiều điều vướng mắc, đặc biệt trong quá trình thực hiện. Do đó, cần có sự chỉ đạo thống nhất từ các cấp quản lý về vấn đề nói trên, và sự chỉ đạo này phải được cụ thể hóa thành các văn bản pháp lý. Cơ quan chủ quản có quyền quyết định điều này hoặc tham mưu cho cấp trên để ban hành các văn bản phải là Bộ Giáo dục và Đào tạo. Liệu có thể đưa những nội dung này vào Điều lệ trường trung học, Luật Giáo dục đại học hay là những văn bản dưới luật như các thông tư, chỉ thị...? Theo chúng tôi, đó là điều cơ quan có thẩm quyền rất cần cân nhắc. Chỉ biết rằng, khi đã có hành lang pháp lý, mọi hoạt động sẽ diễn ra bài bản hơn, thuận lợi hơn cho cả đôi bên.
Khi đã có văn bản quy định, sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan, đơn vị hữu quan (trường đại học Sư phạm, trường phổ thông, các Sở GD & ĐT, phòng giáo dục, UBND các tỉnh, huyện… ) là điều có thể làm được. Sự phân nhiệm theo cơ chế rành mạch như vậy nhất thiết phải đi đôi với khung quy định về kinh phí. Có chi trả thích đáng cho những giáo viên phổ thông thực sự tham gia vào công việc đào tạo sinh viên ngành sư phạm thì mới khuyến khích được sự tự giác, tích cực của họ.
3.2. Gắn kết với trường phổ thông còn phải được thể hiện ở việc đổi mới phương thức đào tạo ngành sư phạm. Chương trình đào tạo nhất thiết phải thay đổi theo hướng gắn với thực tiễn dạy học ở trường phổ thông. Hoạt động rèn nghề cho sinh viên không thể phó mặc cho giảng viên dạy các học phần nghiệp vụ sư phạm như trước đây, mà mỗi giảng viên, dù dạy bất cứ mảng kiến thức cơ bản nào, hễ lên lớp với sinh viên sư phạm đều phải đồng thời là một nhà giáo học pháp. Phải luôn đặt ra câu hỏi: những tri thức trong học phần này liên quan thế nào đến chương trình phổ thông? Với học phần này, những kỹ năng, năng lực nào cần phát triển cho sinh viên để họ biết cách xử lý trong giờ dạy ở phổ thông sau này? Muốn trả lời những câu hỏi đó, giảng viên dạy khoa học cơ bản ở ngành sư phạm cần bớt lý thuyết, bớt hàn lâm. Phải nghiên cứu kỹ chương trình phổ thông, thâm nhập thực tế phổ thông bằng mọi cách mới thấy được những chỗ nan giải của giáo viên khi dạy những nội dung liên quan đến học phần mà mình đảm trách. Giảng viên đại học nhất thiết phải thường xuyên theo dõi những thay đổi về chương trình, sách giáo khoa, về phương pháp dạy học ở phổ thông để có hướng điều chỉnh cách dạy của mình cho thiết thực.
Đối với giảng viên đảm trách các học phần phương pháp dạy học, việc gắn kết với phổ thông đòi hỏi ở mức độ cao hơn. Nội dung và cách thức tổ chức dạy học cần luôn bám sát những yêu cầu đào tạo giáo viên trong bối cảnh mới. Tính hiệu quả của những phương pháp dạy học mà giảng viên đề xuất phải được kiểm nghiệm không chỉ qua thực hành trên giảng đường, mà còn qua kết quả thực tập của sinh viên ở trường phổ thông. Những thông tin về năng lực thực tế của sinh viên trong các đợt thực tập phải được nhà giáo học pháp đón nhận và xử lý. Đó chính là một kênh thông tin hết sức quan trọng giúp giảng viên tự soát xét lại cách đào tạo của mình. Hơn thế nữa, giảng viên phương pháp phải thường xuyên có mặt tại địa điểm thực tập, không chỉ giúp đỡ sinh viên về chuyên môn, mà còn phối hợp với trường sở tại trong việc đánh giá. Một cách làm rất đáng học tập từ Phần Lan: mọi giai đoạn trong quá trình thực tập của sinh viên, “tất cả đều phải qua đánh giá của giáo viên hướng dẫn cùng giáo sư và giảng viên của khoa đào tạo giáo viên” [8, tr. 238].
Phát huy lợi thế từ trường phổ thông thực hành, giảng viên phương pháp có thể mạnh dạn thay đổi hình thức dạy học. Bên cạnh những giờ dạy trên giảng đường, cần có những giờ cùng sinh viên thâm nhập thực tế. Các tiết dạy ở trường thực hành mà thầy trò cùng được tham dự là những “tư liệu sống” vô cùng quý giá, qua đó, giảng viên nêu lên nhiều vấn đề cho sinh viên phân tích, thảo luận, tìm kiếm cách thức dạy học phù hợp với các kiểu bài cụ thể. Chỗ này, ngành sư phạm có thể tiếp thu những kinh nghiệm quý báu của các trường đại học Y khoa. Ở nhiều trường Y, buổi sáng sinh viên học trên lớp, buổi chiều thực tập tại bệnh viện. Hoạt động kiểu này diễn ra thường xuyên. Hơn thế, giảng viên dạy trên lớp có thể đồng thời là bác sĩ điều trị ở một khoa. Sinh viên được chỉ dẫn thực hành thăm khám, lập bệnh án cho những bệnh nhân mà thầy mình đang điều trị, sau đó chứng kiến cách khám bệnh, hội chẩn, điều trị của thầy. Từ cách làm của thầy, sinh viên nhận ra những non nớt, thiếu hụt của bản thân để có cách tu tập, rèn luyện nghề nghiệp. Vận dụng cách đào tạo của ngành Y, giảng viên phương pháp sư phạm cần phá bỏ những rào cản tâm lý, tránh giữ kẽ không cần thiết, sẵn sàng dạy mẫu một số tiết ở trường thực hành để sinh viên dự giờ, học tập. Một nhà phương pháp có bản lĩnh thì không sợ bị phân tích, mổ xẻ cách dạy của mình. Ở phương diện là “tư liệu sống”, những bất cập trong giờ dạy của thầy cũng hữu ích không kém sự thành công.
Gắn với phổ thông không chỉ thể hiện ở thay đổi nội dung, cấu trúc chương trình, ở phương pháp dạy học, mà còn ở hình thức đánh giá các học phần nghiệp vụ sư phạm. Sản phẩm để đánh giá không nhất thiết phải là một bài kiểm tra lý thuyết theo bộ đề như lâu nay, mà có thể là một tiểu luận do sinh viên nghiên cứu về chương trình, SGK, giáo án giảng dạy, hoặc một hoạt động trải nghiệm dạy học qua thâm nhập thực tế...
3.3. Trong quá trình đào tạo sư phạm ở trường đại học, rất cần sự tham gia hỗ trợ của giáo viên phổ thông. Sự tham gia này không chỉ ở việc hướng dẫn kiến tập, thực tập sư phạm theo định kỳ như đã đề cập ở trên, mà còn trong cả quá trình đào tạo. Giáo viên có thể được mời để tư vấn cho sinh viên về kinh nghiệm tiến hành các hoạt động trước khi các em đến các trường phổ thông. Đặc biệt, hiện nay có nhiều giáo viên phổ thông đang theo học cao học hoặc nghiên cứu sinh ở trường đại học. Có thể huy động những học viên/giáo viên này tham gia giảng dạy thể nghiệm các phương pháp cho sinh viên học tập tại trường thực hành. (Cần nói thêm, nhà trường nên tạo cơ chế thật thông thoáng, có chế độ tài chính rõ ràng để trường thực hành trở thành một môi trường hấp dẫn cho sinh viên học nghề). Ở khâu làm luận văn thạc sĩ, cán bộ hướng dẫn khoa học nên giao cho học viên những đề tài gần gũi, thiết thực, có tính khả thi, chẳng hạn, nghiên cứu một hoạt động cụ thể ở một trường phổ thông mà họ hiểu biết cặn kẽ, có thể là trường mà họ đang công tác. Những đề tài giàu khả năng ứng dụng như vậy sẽ góp phần giải quyết các bài toán thực tiễn thường xuyên đặt ra. Đây là cách mà một số nền giáo dục tiên tiến, đặc biệt là Phần Lan đã áp dụng rất hiệu quả bấy lâu nay, khiến chất lượng đào tạo giáo viên của họ luôn đứng ở hàng đầu thế giới [8, tr. 202 – 244].
3.4. Trường đại học Sư phạm cũng cần phân công giảng viên (không chỉ các giảng viên của chuyên ngành Phương pháp dạy học) đi thực tế phổ thông. Mục đích của công việc này là để giảng viên cập nhật tình hình giảng dạy, chương trình, nội dung, phương pháp, nắm bắt những điểm “nghẽn” mà giáo viên phổ thông thường gặp để giúp sinh viên có hướng giải quyết sau này… Trong quá trình đi thực tế, giảng viên điều tra, khảo sát ý kiến các đơn vị tuyển dụng giáo viên về chất lượng và chuẩn đầu ra của sinh viên sư phạm. Hoạt động này cần được chuẩn bị theo kế hoạch và nên được tiến hành thường xuyên, với những hình thức, phương pháp điều tra, khảo sát chính xác, khách quan.
3.5. Cuối cùng, công việc rèn nghề cho sinh viên sư phạm không nên chỉ tập trung vào học kỳ cuối khóa mà cần được tiến hành sớm hơn, song song với hoạt động học tập các môn lý thuyết. Theo PGS.TS Nguyễn Kim Hồng – Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, nên cho sinh viên thực hành ngay từ năm thứ nhất và thực tập từ năm thứ ba [7]. Chúng tôi tán đồng đề xuất này. Không những thế, phải điều chỉnh chương trình, tăng thời lượng cũng như cách tổ chức hoạt động thực tập. Cần tập huấn cho sinh viên trước khi đi TTSP với sự tham gia của các giáo viên phổ thông có kinh nghiệm. Việc xây dựng và hoàn thiện Hồ sơ thực tập với bộ công cụ đánh giá kết quả kiến tập/ thực tập sư phạm của sinh viên nên có sự tham gia của cả trường đại học và trường phổ thông (giáo viên, giảng viên hướng dẫn, giáo sinh…). Mặt khác, trường đại học cần tăng cường việc kiểm tra, đánh giá hoạt động thực tập sư phạm của sinh viên. Việc đi kiểm tra không chỉ nhằm mục đích đôn đốc, nhắc nhở sinh viên về nề nếp, ý thức kỷ luật, trách nhiệm công việc… mà quan trọng hơn là để thu thập, sử dụng những thông tin phản hồi đó vào việc đào tạo sư phạm trong trường đại học một cách kịp thời, hiệu quả.
            III. KẾT LUẬN
            Việc nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên ở ngành Sư phạm để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục là câu chuyện rất nóng hiện nay. Vấn đề này thu hút sự quan tâm của nhiều người. Nắm bắt thực trạng không phải là chuyện khó. Đề xuất giải pháp cũng không phải là chuyện quá tầm. Lâu nay đã có các đoàn công tác đi tham quan học tập kinh nghiệm của các nền giáo dục tiên tiến. Các Hội thảo về chủ đề này cũng được tổ chức thường xuyên. Mỗi người một ý, song có những điểm gặp nhau. Vậy chung quy, mấu chốt của mọi chuyện, theo chúng tôi là ở một chiến lược tổng thể, mà công việc đào tạo ở các trường, các khoa sư phạm chỉ là một mắt xích.
            Những đề xuất của chúng tôi trong bài viết này hoàn toàn không phải là chuyện cao xa, viễn vông. Là người trong cuộc, tham gia đào tạo giáo viên, đã chứng kiến những thay đổi ở phổ thông và ở đại học, chúng tôi nhận thức được những bất cập của bản thân cũng như của đơn vị. Tuy nhiên, mỗi cá nhân, dù tâm huyết và nỗ lực bao nhiêu cũng không đủ. Sự gắn kết giữa trường đại học và trường phổ thông để nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên, theo chúng tôi hoàn toàn có tính khả thi. Vấn đề là, quan điểm của Bộ chủ quản, nhận thức của lãnh đạo trường và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ giảng viên có gặp nhau hay không mà thôi.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
            [1] Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông nhiều cấp học (2007), Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
            [2]  “Gắn kết trường sư phạm và cơ sở sử dụng giáo viên”, (2014), Giáo dục và Đào tạo.
            [3] Đặng Lưu (2013), “Về đâu ngành Sư phạm Ngữ văn?”, sách Vườn văn... những lối vào, Nxb Đại học Vinh.
            [4] Nguyễn Thanh Hùng, Phạm Thị Thúy Hằng (2017), “Thực hành nghề sư phạm trong đào tạo giáo viên: kinh nghiệm từ Cộng hòa Liên bang Đức và định hướng vận dụng cho các trường sư phạm ở Việt Nam”, in trong Phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia kỷ niệm 60 năm thành lập trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế, Nxb Thông tin và truyền thông, tr. 202 – 209.
            [5] Nguyễn Huy Phòng (2017), “Những thách thức trong đào tạo bồi dưỡng giáo viên ở nước ta hiện nay”, in trong Phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia kỷ niệm 60 năm thành lập trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế, Nxb Thông tin và truyền thông, tr. 373 – 379.
            [6] Lê Anh Phương, Trần Kiêm Minh (2017), “Một số mô hình đào tạo giáo viên trên thế giới và giải pháp đổi mới đào tạo giáo viên ở Việt Nam”, in trong Phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia kỷ niệm 60 năm thành lập trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế, Nxb Thông tin và truyền thông, tr. 380 – 389.
            [7] Giang Sơn (2015), “Gắn kết trường sư phạm và trường phổ thông”, Nhân Dân điện tử.
            [8] Pasi Sahlberg (2016), Bài học Phần Lan 2.0, Nxb Thế giới.
            [9] Hoàng Anh Tuấn (2017), “Mô hình đào tạo giáo viên đáp ứng yêu cầu hội nhập cộng đồng ASEAN”, in trong Phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia kỷ niệm 60 năm thành lập trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế, Nxb Thông tin và truyền thông, tr. 492 - 499.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét