TĂNG CƯỜNG GẮN KẾT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VỚI TRƯỜNG PHỔ THÔNG
ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN
Đặng Lưu – Lê Hồ Quang
Khoa SP Ngữ văn,
Trường Đại học Vinh
TÓM TẮT
Hiện nay, chất lượng đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng
được yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục Việt Nam. Thực trạng này do
nhiều nguyên nhân, trong đó, có khâu đào tạo ở các trường, khoa sư phạm. Để có
thể nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên, các trường, khoa sư phạm cần tăng cường
gắn kết với trường phổ thông. Mặc dù từ trước đến nay, trường, khoa sư phạm thường
gửi sinh viên về kiến tập, thực tập, nhưng mối quan hệ như vậy vẫn mang tính
đơn tuyến, một chiều, thiếu sự tương tác, do vậy, tác dụng chưa được như mong
muốn.
Để tăng
cường mối quan hệ giữa trường đại học và trường phổ thông nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo giáo viên, cần khẩn trương thực hiện một số biện pháp. Thứ nhất, cơ quan chủ quản ngành giáo dục
phải có văn bản quy định trách nhiệm, quyền lợi của các bên, đề xuất chế độ
kinh phí hợp lý cho giáo viên phổ thông tham gia hướng dẫn sinh viên. Thứ hai, thời gian thực tế, thực tập nghề
của sinh viên cần sớm hơn, dài hơn, sinh viên có mặt ở trường phổ thông thường
xuyên hơn. Thứ ba, giảng viên bộ môn
phương pháp phải đến các trường để cùng giáo viên phổ thông đánh giá kết quả thực
tập của sinh viên. Thứ tư, trường,
khoa sư phạm phải thường xuyên cập nhật những thay đổi chương trình, sách giáo
khoa, phương pháp dạy học ở phổ thông để điều chỉnh chương trình đào tạo cho
phù hợp. Cuối cùng, giảng viên phải
thực sự đổi mới quan niệm, cách thức dạy học, cách kiểm tra đánh giá, chú trọng
khâu thực hành, gắn với thực tiễn dạy học ở phổ thông. Các biện pháp trên đây
phải được tiến hành đồng bộ thì mới có tác dụng nâng cao chất lượng đào tạo
giáo viên.
ENHANCING
THE CONNECTION BETWEEN UNIVERSITIES AND HIGH SCHOOLS TO IMPROVE THE QUALITY OF
TEACHERS TRAINING
In recent years, the quality of
teaching staff has not met the requirements of comprehensive reform of
education in Vietnam. This situation results from a variety of reasons,
including training activities in pedagogical departments in universities. In order to
improve the quality of teacher training, pedagogical departments need to
strengthen connection with high schools. Although pedagogical students are
always sent to high schools as internships, there exist inadequate interaction between universities
and high schools which lead to some unexpected consequences.
To improve the quality
of teachers training as well as enhance the relationship between universities
and high schools, several suggested solutions are proposed. First of all, the
Ministry of Education and Training has to promulgate circulars about
responsibilities and interests of both sides, then proposes a reasonable budget
for teachers who guide pedagogical students. Secondly, internship time for students should
be lengthened and well- prepared; at the same time, internship students are expected to have frequent attendance at school. Thirdly,
lecturers of methodology subject have to coordinate with high school teachers
to appraise the results of the practicing process of pedagogical students.
Furthermore, pedagogical departments in universities must update changes of
programs, textbooks and methodology suitably, therefore have an appropriate
adjustment. Lastly, lecturers have to focus on issues such as innovation
of concepts, teaching methods, assessment methods, and the practicality of
teaching in high schools. The measures mentioned above must be implemented
synchronously in order to improve the quality of teacher training.
I.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong việc đổi mới nền giáo dục quốc
gia, đội ngũ nhà giáo đóng vai trò quyết định cho sự thành công. Hễ ai quan tâm
đến lĩnh vực giáo dục đều dễ dàng nhận ra điều đó. Việc cập nhật thông tin về
các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới hiện nay giúp ta có điều kiện đối sánh
và thấy rõ tình trạng đáng lo ngại trong đào tạo ngành sư phạm cũng như chất lượng
giáo viên ở Việt Nam. Gần đây, chủ đề này đã làm nóng các diễn đàn. Nhiều người
chỉ ra một “chùm” nguyên nhân dẫn đến thực trạng nêu trên. Chất lượng đầu vào
thấp. Chương trình đào tạo chủ yếu cung cấp tri thức, chưa chú ý phát triển
năng lực sư phạm của người học. Khâu rèn nghề chưa đảm bảo yêu cầu khiến người
học thiếu các kỹ năng cần thiết mà thực tế đòi hỏi. Sinh viên không có động lực
học tập vì khó tìm việc sau khi ra trường. Đời sống của giáo viên căn bản là
khó khăn, không có sức hấp dẫn đối với người học sư phạm. Tâm lý thực dụng của
con người trong nền kinh tế thị trường...
Do sự chi phối của một chuỗi nguyên
nhân, cho nên vấn đề chất lượng ngành sư phạm cần phải được giải quyết đồng bộ.
Bên cạnh những khâu thuộc trách nhiệm của người học, của xã hội, của các nhà quản
lý vĩ mô, những người hoạch định chính sách, có một “phân khúc” quan trọng thuộc
chức trách của các cơ sở đào tạo. Ở “phân khúc” này, có ba điểm mấu chốt cần tập
trung giải quyết: phải có một chương
trình đào tạo sát yêu cầu thực tiễn, phải có một đội ngũ giảng viên đủ trình độ, tâm huyết với nghề, và cuối cùng phải
có sự gắn kết chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo
sư phạm với các trường phổ thông để người học được rèn nghề một cách thực
chất, có hiệu quả.
Ngày nay, liên kết với doanh nghiệp là
một nhân tố đảm bảo sự sống còn của mô hình đại học hiện đại. Chỉ có liên kết,
sản phẩm đào tạo của nhà trường mới đáp ứng ở mức cao những đòi hỏi của nhà tuyển
dụng trong môi trường cạnh tranh quyết liệt. Chỉ có liên kết, nhà trường mới
luôn luôn có điều kiện tự soi lại mình, nhận ra những chỗ bất cập so với yêu cầu
thực tế để thường xuyên điều chỉnh chương trình và cách thức đào tạo.
Ngành sư phạm ở các trường đại học không
thể tự cho phép mình đứng ngoài bối cảnh đó.
II.
NỘI DUNG
1.
Thực trạng mối quan hệ giữa trường đại học với trường phổ thông trong đào tạo
giáo viên hiện nay
Trong chương trình đào tạo giáo
viên, ngoài các học phần cơ sở ngành và chuyên ngành, có một số học phần thuộc
về nghiệp vụ sư phạm. Đó là Tâm lý học, Giáo dục học, Phương pháp dạy học bộ
môn. Bên cạnh tri thức lý thuyết, những học phần này còn có nội dung rèn luyện
năng lực nghề nghiệp thể hiện qua hoạt động kiến tập và thực tập sư phạm.
Trước hết, phải nói ngay rằng, việc đào
tạo ngành sư phạm ở Việt Nam, thời gian dành cho sinh viên thực tập còn quá ít.
Xin lấy ví dụ từ trường Đại học Vinh: trong tổng số 132 tín chỉ của khung
chương trình, thực tập giảng dạy ở phổ thông chỉ có 5 tín chỉ, chiếm gần 3,8%,
trong khi ở Phần Lan, sinh viên phải thực hành dạy ở phổ thông là 40 tín chỉ. Người
ta quy định: “Trong đào tạo giáo viên bộ môn, thời lượng thực hành dạy ở các
trường phổ thông chiếm khoảng một phần ba chương trình học” [8, tr. 237]. Những
số liệu trên đặt bên cạnh nhau, tự nó đã nói lên nhiều điều.
Cách tiến hành lâu nay của chúng ta là
trường đại học lên kế hoạch, liên hệ với các Sở Giáo dục và Đào tạo, từ đó có
được danh sách những trường phổ thông sẽ tiếp nhận đoàn kiến tập/ thực tập. Dựa
trên danh sách đó, Trường yêu cầu các khoa phân công sinh viên về các trường phổ
thông theo chỉ tiêu đã được ấn định. Mỗi đoàn kiến tập/ thực tập gồm sinh viên
đủ các khoa, sẽ đến một trường nào đó theo phân công. Đã có một thời, trường đại
học cử giảng viên phụ trách đoàn thực tập, phối hợp với trường phổ thông để giải
quyết những vụ việc nảy sinh cũng như tham gia đánh giá sinh viên. Nhưng đó là
câu chuyện của quá khứ. Hiện nay, nhiệm vụ quản lý đoàn thực tập được giao cho
đội ngũ cán bộ là sinh viên, do nhà trường cử trên cơ sở đề xuất của các khoa.
Trong thời gian làm việc ở trường phổ
thông, sinh viên phải tìm hiều môi trường giáo dục, thực hành một số hoạt động
trong tư cách người giáo viên như chủ nhiệm lớp, dạy học theo chương trình, các
hoạt động ngoài giờ... Nếu là kiến tập, sinh viên phải có sản phẩm hoàn thành
trong quá trình hoạt động ở trường phổ thông và viết bài thu hoạch để giảng
viên phụ trách học phần đánh giá. Nếu là thực tập, trường sở tại sẽ phân công
giáo viên hướng dẫn và đánh giá kết quả các hoạt động của sinh viên.
Với cách làm như vậy, trường phổ
thông chỉ đóng vai trò là “đơn vị sản xuất”, người học được đến để trải nghiệm
nghề nghiệp. Sự trải nghiệm diễn ra ở những mức độ khác nhau. Là kiến tập thì sinh
viên chỉ dừng lại ở quan sát, tìm hiểu và tham gia vài hoạt động của lớp học, của
nhà trường. Là thực tập thì sinh viên được trực tiếp tham gia sâu hơn vào một số
hoạt động của trường như làm chủ nhiệm lớp, dạy học. Dù không “khoán trắng” cho
sinh viên (vì Trường, Khoa có tổ chức các đợt kiểm tra cũng như tổng kết cuối đợt
thực tập), nhưng xem ra quan hệ giữa trường đại học và trường phổ thông theo kiểu
đó vẫn mang tính chất đơn tuyến, một chiều, chưa có sự tương tác. Rốt cuộc, chất
lượng học nghề, rèn nghề của sinh viên sư phạm chủ yếu vẫn phụ thuộc vào các hoạt
động diễn ra trong khuôn viên của trường đại học. Thực trạng này đã được nhiều
người nhận thấy và phản ánh trên một số diễn đàn [2], [6], [7], [9].
Hằng năm, tại các cuộc tổng kết thực
tập, cán bộ quản lý và giáo viên ở các trường phổ thông thường phàn nàn tình trạng
sinh viên non yếu về kỹ năng sư phạm. Đó là một thực tế mà các giảng viên dạy
phương pháp đều nhận thấy. Tuy nhiên, một khi việc đào tạo vẫn nặng về lý thuyết,
một khi sinh viên chỉ được tiếp xúc với môi trường phổ thông ít ỏi như bấy lâu
nay, thì tình trạng nêu trên khó mà cải thiện. Việc tập giảng được tiến hành định
kỳ theo yêu cầu của các học phần phương pháp, dù được hướng dẫn bởi những giảng
viên giàu kinh nghiệm, nhưng kiểu “lớp học mô phỏng” do sinh viên đóng cả vai giáo
viên lẫn vai học sinh để tập tành hoàn toàn khác xa với một lớp học sinh động
trong thực tế ở trường phổ thông. Không được thâm nhập thường xuyên vào môi trường
đó, việc rèn nghề ở giảng đường đại học không khác gì “múa cho nhau xem, hát
cho nhau nghe” trong phòng tập. Khi đứng trước cái “sân khấu hoành tráng” là lớp
thực, trường thực, đòi hỏi phải có những hoạt động đa dạng, phong phú, phải giải
quyết những mối quan hệ phức tạp, với vốn kỹ năng “phòng tập” còn quá ít ỏi như
vậy, tất yếu sinh viên sẽ rất lúng túng.
3. Một số về biện pháp xây dựng mối quan hệ gắn
kết giữa trường đại học và trường phổ thông trong đào tạo giáo viên
3.1. Trước
hết, để tạo nên mối quan hệ gắn kết giữa trường đại học có đào tạo ngành sư phạm
với trường phổ thông, theo chúng tôi, cần
xác định rõ bản chất của mối quan hệ cũng như vai trò, trách nhiệm, quyền lợi của
mỗi bên trong mối quan hệ này. Trên thực tế, như đã phân tích, sự phối hợp,
gắn kết giữa trường đại học và phổ thông chủ yếu theo “thời vụ”, nghĩa là khi
nào có học phần kiến tập hay thực tập, trường đại học mới “nhờ” trường phổ
thông “giúp đỡ”. Mối quan hệ như vậy là khá là lỏng lẻo, manh mún, không hề có
sự ràng buộc.
Kinh phí
chi trả cho hoạt động hướng dẫn thực tập dường như chỉ mang tính “tượng trưng”
và cũng không thống nhất ở các cơ sở đại học. Việc không có một cơ chế làm việc
đồng bộ với những quy định trách nhiệm và quyền lợi về cụ thể, rõ ràng khiến sự
phối hợp giữa hai bên gặp không ít vướng mắc. Trường đại học thì lâm vào thế phải
“cậy nhờ” trường phổ thông, còn trường phổ thông thì lâm vào thế “bị làm phiền’,
“buộc phải giúp đỡ”. Việc có nhận đoàn thực tập hay không tùy vào “hảo tâm” của
lãnh đạo nhà trường. Có những trường thẳng thừng từ chối. Vì là quan hệ “cậy nhờ”,
cho nên cả hai bên đều không xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ cũng như quyền lợi
của mình. Về phía trường phổ thông, một khi việc đào tạo giáo viên - nguồn nhân
lực có ý nghĩa quyết định sự hưng thịnh của xã hội – mà bị đặt vào một cái thế
“phải giúp” miễn cưỡng, bị động như vậy thì hiệu quả của nó đến đâu, chắc không
cần nói thêm.
Nếu xét
về lợi ích toàn cục, mối quan hệ giữa trường đại học và trường phổ thông phải
là mối quan hệ hợp tác, cộng sinh. Theo quan niệm hiện đại, trường đại học sư
phạm là cơ sở sản xuất “sản phẩm” đặc biệt (giáo viên), chịu trách nhiệm về sản
phẩm này trước thị trường lao động, trước đơn vị tuyển dụng. Trường phổ thông
là đơn vị “đặt hàng” cũng là đơn vị tuyển dụng và trực tiếp kiểm nghiệm chất lượng
giáo viên - sản phẩm đào tạo của trường đại học. Trường phổ thông sẽ được hưởng
lợi từ những “sản phẩm” đạt chất lượng cao (những giáo viên có trình độ, năng lực,
phẩm chất tốt); ngược lại, nếu “sản phẩm” bị lỗi (những giáo viên yếu kém về
các mặt) thì nơi trực tiếp phải hứng chịu hậu quả cũng là trường phổ thông. Bởi
vậy, việc xây dựng mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó giữa trường đại học và trường
phổ thông trong việc đào tạo giáo viên không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ mà
còn xuất phát từ quyền lợi thiết thực của cả hai bên.
Lý thuyết
là như vậy, nhưng trên thực tế còn có nhiều điều vướng mắc, đặc biệt trong quá
trình thực hiện. Do đó, cần có sự chỉ đạo thống nhất từ các cấp quản lý về vấn
đề nói trên, và sự chỉ đạo này phải được cụ thể hóa thành các văn bản pháp lý.
Cơ quan chủ quản có quyền quyết định điều này hoặc tham mưu cho cấp trên để ban
hành các văn bản phải là Bộ Giáo dục và Đào tạo. Liệu có thể đưa những nội dung
này vào Điều lệ trường trung học, Luật Giáo dục đại học hay là những văn bản dưới
luật như các thông tư, chỉ thị...? Theo chúng tôi, đó là điều cơ quan có thẩm
quyền rất cần cân nhắc. Chỉ biết rằng, khi đã có hành lang pháp lý, mọi hoạt động
sẽ diễn ra bài bản hơn, thuận lợi hơn cho cả đôi bên.
Khi đã
có văn bản quy định, sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan, đơn vị hữu
quan (trường đại học Sư phạm, trường phổ thông, các Sở GD & ĐT, phòng giáo
dục, UBND các tỉnh, huyện… ) là điều có thể làm được. Sự phân nhiệm theo cơ chế
rành mạch như vậy nhất thiết phải đi đôi với khung quy định về kinh phí. Có chi
trả thích đáng cho những giáo viên phổ thông thực sự tham gia vào công việc đào
tạo sinh viên ngành sư phạm thì mới khuyến khích được sự tự giác, tích cực của
họ.
3.2. Gắn
kết với trường phổ thông còn phải được thể hiện ở việc đổi mới phương thức đào
tạo ngành sư phạm. Chương trình đào tạo nhất thiết phải thay đổi theo hướng gắn
với thực tiễn dạy học ở trường phổ thông. Hoạt động rèn nghề cho sinh viên
không thể phó mặc cho giảng viên dạy các học phần nghiệp vụ sư phạm như trước
đây, mà mỗi giảng viên, dù dạy bất cứ mảng kiến thức cơ bản nào, hễ lên lớp với
sinh viên sư phạm đều phải đồng thời là một nhà giáo học pháp. Phải luôn đặt ra
câu hỏi: những tri thức trong học phần này liên quan thế nào đến chương trình
phổ thông? Với học phần này, những kỹ năng, năng lực nào cần phát triển cho
sinh viên để họ biết cách xử lý trong giờ dạy ở phổ thông sau này? Muốn trả lời
những câu hỏi đó, giảng viên dạy khoa học cơ bản ở ngành sư phạm cần bớt lý
thuyết, bớt hàn lâm. Phải nghiên cứu kỹ chương trình phổ thông, thâm nhập thực
tế phổ thông bằng mọi cách mới thấy được những chỗ nan giải của giáo viên khi dạy
những nội dung liên quan đến học phần mà mình đảm trách. Giảng viên đại học nhất
thiết phải thường xuyên theo dõi những thay đổi về chương trình, sách giáo
khoa, về phương pháp dạy học ở phổ thông để có hướng điều chỉnh cách dạy của
mình cho thiết thực.
Đối với
giảng viên đảm trách các học phần phương pháp dạy học, việc gắn kết với phổ
thông đòi hỏi ở mức độ cao hơn. Nội dung và cách thức tổ chức dạy học cần luôn
bám sát những yêu cầu đào tạo giáo viên trong bối cảnh mới. Tính hiệu quả của
những phương pháp dạy học mà giảng viên đề xuất phải được kiểm nghiệm không chỉ
qua thực hành trên giảng đường, mà còn qua kết quả thực tập của sinh viên ở trường
phổ thông. Những thông tin về năng lực thực tế của sinh viên trong các đợt thực
tập phải được nhà giáo học pháp đón nhận và xử lý. Đó chính là một kênh thông
tin hết sức quan trọng giúp giảng viên tự soát xét lại cách đào tạo của mình. Hơn
thế nữa, giảng viên phương pháp phải thường xuyên có mặt tại địa điểm thực tập,
không chỉ giúp đỡ sinh viên về chuyên môn, mà còn phối hợp với trường sở tại
trong việc đánh giá. Một cách làm rất đáng học tập từ Phần Lan: mọi giai đoạn trong
quá trình thực tập của sinh viên, “tất cả đều phải qua đánh giá của giáo viên
hướng dẫn cùng giáo sư và giảng viên của khoa đào tạo giáo viên” [8, tr. 238].
Phát huy
lợi thế từ trường phổ thông thực hành, giảng viên phương pháp có thể mạnh dạn
thay đổi hình thức dạy học. Bên cạnh những giờ dạy trên giảng đường, cần có những
giờ cùng sinh viên thâm nhập thực tế. Các tiết dạy ở trường thực hành mà thầy
trò cùng được tham dự là những “tư liệu sống” vô cùng quý giá, qua đó, giảng
viên nêu lên nhiều vấn đề cho sinh viên phân tích, thảo luận, tìm kiếm cách thức
dạy học phù hợp với các kiểu bài cụ thể. Chỗ này, ngành sư phạm có thể tiếp thu
những kinh nghiệm quý báu của các trường đại học Y khoa. Ở nhiều trường Y, buổi
sáng sinh viên học trên lớp, buổi chiều thực tập tại bệnh viện. Hoạt động kiểu
này diễn ra thường xuyên. Hơn thế, giảng viên dạy trên lớp có thể đồng thời là
bác sĩ điều trị ở một khoa. Sinh viên được chỉ dẫn thực hành thăm khám, lập bệnh
án cho những bệnh nhân mà thầy mình đang điều trị, sau đó chứng kiến cách khám
bệnh, hội chẩn, điều trị của thầy. Từ cách làm của thầy, sinh viên nhận ra những
non nớt, thiếu hụt của bản thân để có cách tu tập, rèn luyện nghề nghiệp. Vận dụng
cách đào tạo của ngành Y, giảng viên phương pháp sư phạm cần phá bỏ những rào cản
tâm lý, tránh giữ kẽ không cần thiết, sẵn sàng dạy mẫu một số tiết ở trường thực
hành để sinh viên dự giờ, học tập. Một nhà phương pháp có bản lĩnh thì không sợ
bị phân tích, mổ xẻ cách dạy của mình. Ở phương diện là “tư liệu sống”, những bất
cập trong giờ dạy của thầy cũng hữu ích không kém sự thành công.
Gắn với
phổ thông không chỉ thể hiện ở thay đổi nội dung, cấu trúc chương trình, ở phương
pháp dạy học, mà còn ở hình thức đánh giá các học phần nghiệp vụ sư phạm. Sản
phẩm để đánh giá không nhất thiết phải là một bài kiểm tra lý thuyết theo bộ đề
như lâu nay, mà có thể là một tiểu luận do sinh viên nghiên cứu về chương trình,
SGK, giáo án giảng dạy, hoặc một hoạt động trải nghiệm dạy học qua thâm nhập thực
tế...
3.3.
Trong quá trình đào tạo sư phạm ở trường đại học, rất cần sự tham gia hỗ trợ của
giáo viên phổ thông. Sự tham gia này không chỉ ở việc hướng dẫn kiến tập, thực
tập sư phạm theo định kỳ như đã đề cập ở trên, mà còn trong cả quá trình đào tạo.
Giáo viên có thể được mời để tư vấn cho sinh viên về kinh nghiệm tiến hành các
hoạt động trước khi các em đến các trường phổ thông. Đặc biệt, hiện nay có nhiều
giáo viên phổ thông đang theo học cao học hoặc nghiên cứu sinh ở trường đại học.
Có thể huy động những học viên/giáo viên này tham gia giảng dạy thể nghiệm các
phương pháp cho sinh viên học tập tại trường thực hành. (Cần nói thêm, nhà trường
nên tạo cơ chế thật thông thoáng, có chế độ tài chính rõ ràng để trường thực
hành trở thành một môi trường hấp dẫn cho sinh viên học nghề). Ở khâu làm luận
văn thạc sĩ, cán bộ hướng dẫn khoa học nên giao cho học viên những đề tài gần
gũi, thiết thực, có tính khả thi, chẳng hạn, nghiên cứu một hoạt động cụ thể ở
một trường phổ thông mà họ hiểu biết cặn kẽ, có thể là trường mà họ đang công
tác. Những đề tài giàu khả năng ứng dụng như vậy sẽ góp phần giải quyết các bài
toán thực tiễn thường xuyên đặt ra. Đây là cách mà một số nền giáo dục tiên tiến,
đặc biệt là Phần Lan đã áp dụng rất hiệu quả bấy lâu nay, khiến chất lượng đào
tạo giáo viên của họ luôn đứng ở hàng đầu thế giới [8, tr. 202 – 244].
3.4. Trường
đại học Sư phạm cũng cần phân công giảng viên (không chỉ các giảng viên của
chuyên ngành Phương pháp dạy học) đi thực tế phổ thông. Mục đích của công việc
này là để giảng viên cập nhật tình hình giảng dạy, chương trình, nội dung,
phương pháp, nắm bắt những điểm “nghẽn” mà giáo viên phổ thông thường gặp để
giúp sinh viên có hướng giải quyết sau này… Trong quá trình đi thực tế, giảng
viên điều tra, khảo sát ý kiến các đơn vị tuyển dụng giáo viên về chất lượng và
chuẩn đầu ra của sinh viên sư phạm. Hoạt động này cần được chuẩn bị theo kế hoạch
và nên được tiến hành thường xuyên, với những hình thức, phương pháp điều tra,
khảo sát chính xác, khách quan.
3.5. Cuối
cùng, công việc rèn nghề cho sinh viên sư phạm không nên chỉ tập trung vào học
kỳ cuối khóa mà cần được tiến hành sớm hơn, song song với hoạt động học tập các
môn lý thuyết. Theo PGS.TS Nguyễn Kim Hồng – Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm
TP. Hồ Chí Minh, nên cho sinh viên thực hành ngay từ năm thứ nhất và thực tập từ
năm thứ ba [7]. Chúng tôi tán đồng đề xuất này. Không những thế, phải điều chỉnh
chương trình, tăng thời lượng cũng như cách tổ chức hoạt động thực tập. Cần tập
huấn cho sinh viên trước khi đi TTSP với sự tham gia của các giáo viên phổ
thông có kinh nghiệm. Việc xây dựng và hoàn thiện Hồ sơ thực tập với bộ công cụ
đánh giá kết quả kiến tập/ thực tập sư phạm của sinh viên nên có sự tham gia của
cả trường đại học và trường phổ thông (giáo viên, giảng viên hướng dẫn, giáo
sinh…). Mặt khác, trường đại học cần tăng cường việc kiểm tra, đánh giá hoạt động
thực tập sư phạm của sinh viên. Việc đi kiểm tra không chỉ nhằm mục đích đôn đốc,
nhắc nhở sinh viên về nề nếp, ý thức kỷ luật, trách nhiệm công việc… mà quan trọng
hơn là để thu thập, sử dụng những thông tin phản hồi đó vào việc đào tạo sư phạm
trong trường đại học một cách kịp thời, hiệu quả.
III.
KẾT LUẬN
Việc nâng cao chất lượng đào tạo
giáo viên ở ngành Sư phạm để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục là câu chuyện rất
nóng hiện nay. Vấn đề này thu hút sự quan tâm của nhiều người. Nắm bắt thực trạng
không phải là chuyện khó. Đề xuất giải pháp cũng không phải là chuyện quá tầm. Lâu
nay đã có các đoàn công tác đi tham quan học tập kinh nghiệm của các nền giáo dục
tiên tiến. Các Hội thảo về chủ đề này cũng được tổ chức thường xuyên. Mỗi người
một ý, song có những điểm gặp nhau. Vậy chung quy, mấu chốt của mọi chuyện,
theo chúng tôi là ở một chiến lược tổng thể, mà công việc đào tạo ở các trường,
các khoa sư phạm chỉ là một mắt xích.
Những đề xuất của chúng tôi trong
bài viết này hoàn toàn không phải là chuyện cao xa, viễn vông. Là người trong
cuộc, tham gia đào tạo giáo viên, đã chứng kiến những thay đổi ở phổ thông và ở
đại học, chúng tôi nhận thức được những bất cập của bản thân cũng như của đơn vị.
Tuy nhiên, mỗi cá nhân, dù tâm huyết và nỗ lực bao nhiêu cũng không đủ. Sự gắn
kết giữa trường đại học và trường phổ thông để nâng cao chất lượng đào tạo giáo
viên, theo chúng tôi hoàn toàn có tính khả thi. Vấn đề là, quan điểm của Bộ chủ
quản, nhận thức của lãnh đạo trường và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ giảng
viên có gặp nhau hay không mà thôi.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
[1] Điều lệ trường
trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông nhiều cấp học
(2007), Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
[2] “Gắn kết trường
sư phạm và cơ sở sử dụng giáo viên”, (2014), Giáo dục và Đào tạo.
[3] Đặng Lưu (2013), “Về đâu ngành Sư phạm Ngữ văn?”,
sách Vườn văn... những lối vào, Nxb Đại
học Vinh.
[4] Nguyễn Thanh Hùng, Phạm Thị Thúy Hằng (2017), “Thực
hành nghề sư phạm trong đào tạo giáo viên: kinh nghiệm từ Cộng hòa Liên bang Đức
và định hướng vận dụng cho các trường sư phạm ở Việt Nam”, in trong Phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu
đổi mới giáo dục và đào tạo, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia kỷ niệm 60
năm thành lập trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế, Nxb Thông tin và truyền
thông, tr. 202 – 209.
[5] Nguyễn Huy Phòng (2017), “Những thách thức trong đào
tạo bồi dưỡng giáo viên ở nước ta hiện nay”, in trong Phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia kỷ niệm 60 năm thành lập trường Đại học Sư phạm
– Đại học Huế, Nxb Thông tin và truyền thông, tr. 373 – 379.
[6] Lê Anh Phương, Trần Kiêm Minh (2017), “Một số mô hình
đào tạo giáo viên trên thế giới và giải pháp đổi mới đào tạo giáo viên ở Việt
Nam”, in trong Phát triển đội ngũ nhà
giáo đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo, Kỷ yếu Hội thảo khoa học
quốc gia kỷ niệm 60 năm thành lập trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế, Nxb
Thông tin và truyền thông, tr. 380 – 389.
[7] Giang Sơn (2015), “Gắn kết trường sư phạm và trường
phổ thông”, Nhân Dân điện tử.
[8] Pasi Sahlberg (2016), Bài học Phần Lan 2.0, Nxb Thế giới.
[9] Hoàng Anh Tuấn (2017), “Mô hình đào tạo giáo viên đáp
ứng yêu cầu hội nhập cộng đồng ASEAN”, in trong Phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia kỷ niệm 60 năm thành lập trường Đại học Sư phạm
– Đại học Huế, Nxb Thông tin và truyền thông, tr. 492 - 499.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét