Thứ Ba, 10 tháng 6, 2025

Tiểu thuyết của Nguyễn Đức Tùng

                                                          BÍ MẬT CỦA HẢI TRÌNH

(Về tiểu thuyết Thuyền – Nguyễn Đức Tùng, Nxb Phụ nữ Việt Nam, 2025)

                         


                                           

Lê Hồ Quang

Thuyền có nhịp điệu ngôn từ khá đặc biệt: chậm rãi và bình thản. Nhịp điệu ấy hé lộ những câu chuyện khác, ẩn sau câu chuyện đang kể, một dòng chảy rộng lớn, không ngừng luân chuyển, đẩy con thuyền sự kiện trôi dạt không cùng trong hải lưu mênh mang của hồi ức, suy tưởng, chiêm nghiệm về lịch sử dân tộc, nhân loại và đời sống cá nhân, về những giá trị như sự thật, tự do, tình yêu, nỗi đau, sự cứu rỗi… Phải đọc chậm, vì dẫu có muốn, không thể cản được cái mạch/ nhịp đã được hình thành ngay từ lúc câu đầu tiên xuất hiện, nghĩa là khi con thuyền của câu chuyện xuất bến, bắt đầu hải trình, và nhịp điệu ấy được duy trì cho đến tận dòng kết thúc.

Cuốn tiểu thuyết được chia làm nhiều phần nhỏ, như những đoản văn, và đặt tên theo nội dung tương ứng (Thầy bói, Bến Ninh Kiều, Cầu khỉ, Sông Hậu, Cửa biển, Hải phận quốc tế, Vịnh Thái Lan, Khoảnh khắc, Phép lạ, Ngọn lửa trên biển,  Thủy táng, Vàng xưa đầy dấu chân,… Trại biên giới, Tuyết, Một người di dân, Gọi hồn). Câu chuyện kể về một chuyến vượt biên bằng đường biển của một nhóm người Việt vào khoảng những năm 80 của thế kỉ XX từ điểm nhìn của nhân vật tôi, người kể chuyện. Mở đầu là sự kiện đôi trai gái đi xem bói để biết tương lai, số phận của mình trước chuyến hải trình mịt mù. Kết thúc là sự kiện người con trai đi gọi hồn để gặp người yêu giờ đã thành người cõi khác. Xen giữa đó là vô số mảnh sự kiện kinh hoàng của chuyến đi được hồi cố, đan xen, đồng hiện. Kí ức và hiện tại, trải nghiệm và suy tưởng, đau đớn và xót thương…, tất cả đan cài vào nhau, tạo thành một hiện thực nội tâm đặc biệt. 

Trong Thuyền, người kể chuyện xưng tôi tham gia trực tiếp vào vào câu chuyện đồng thời là một nhà văn, tác giả của cuốn tiểu thuyết viết về chuyến vượt biển kinh hoàng mà anh ta đã trải qua với tư cách một nhân chứng sống. Trước hết, anh ta viết để kể lại những trải nghiệm cá nhân của anh ta - người đã thoát chết trong tấn thảm kịch năm xưa nhờ vào một ân sủng bí nhiệm nào đó - và nhờ vậy, được phép “sống để kể lại” (Gabriel Garcia Marquez). Đây cũng là điều khiến anh ta phải thường xuyên đối mặt với những câu hỏi mang tính triết học về sự tồn tại của mỗi cá nhân cũng như ý nghĩa thật sự ẩn chứa sau đó. Nhưng song hành với việc tái hiện kí ức và đặt nó trong vô số bối cảnh và lăng kính quan sát, anh ta đồng thời phục dựng quá trình hình thành và phát triển của văn bản truyện kể một cách có ý thức. Như vậy, cuốn tiểu thuyết này không chỉ kể về các sự kiện của đời sống, mà nó còn kể về sự ra đời của một cuốn tiểu thuyết (có thể hiểu là sự ra đời của chính nó). Hoặc nói cách khác - nó viết về sự viết. Không ngẫu nhiên mà cuốn sách thiết kế mục riêng về Người kể chuyệnNgười đọc. Điều này cho thấy sự tự ý thức về hành động kể chuyện của tác giả: viết tiểu thuyết là một hành động hư cấu. Nhà văn tạo ra thế giới bằng tiểu thuyết, bằng nghệ thuật của truyện kể. Hiện thực nghệ thuật ấy có thể được xây cất trên nền hiện thực lịch sử - xã hội cụ thể nhưng không trùng khít với nó. Đó là hiện thực của tinh thần, tư tưởng. Điều này cũng nhấn mạnh sự gián cách giữa thế giới được kể lại và người kể; giữa thế giới được người kể tạo ra và thế giới được người đọc tiếp nhận, tái tạo.

Với người kể chuyện xưng tôi, người đã xuống thuyền từ đầu cuộc hải trình, viết/ kể lại câu chuyện là một nhu cầu tinh thần bức bách, mãnh liệt. Nó là nhu cầu bên trong, bỏng rẫy, thống thiết: “Câu chuyện kể không làm thay đổi số phận. Tuy vậy, chúng ta vẫn kể mãi. Vì sao? Vì bên dưới một sự thật, có những sự thật khác. Tôi muốn nói với Kyra về sự thật của mình. Phải kể lại tất cả, từng chi tiết, với những lời giải thích. Sự thật cần được giải thích. Không có một sự thật nào gọi là sự thật nguyên vẹn. Mỗi sự thật đều được kể lại bởi một người khác, với một trí nhớ khác, với một giọng nói khác. Có những sự thật đau đớn đến nỗi không có người nào muốn kể lại, không phải vì họ không can đảm, mà vì họ nhận thức được rằng chúng có thể gây tổn thương cho người khác. Kể lại sự thật không phải là một chọn lựa dễ dàng” (Kyra, một lần nữa). Người kể chuyện thường xuyên kết hợp hành động kể với sự  suy ngẫm, đối thoại, chất vấn. Từ góc độ cá nhân, viết là cách để anh ta bộc bạch, giãi bày và qua đó, giải thoát mình khỏi những ám ảnh đau đớn triền miên của quá khứ. Nhưng trong tư cách nhà văn, viết gắn liền nhu cầu nhận thức và kiểm nghiệm lại những giá trị cốt lõi của đời sống như sự thật, tự do, tình thương, cái đẹp, nhân tính…, - những yếu tố cơ bản kiến tạo nên căn tính tinh thần, tư tưởng của một cá nhân, và rộng hơn, của một quốc gia, một dân tộc - mà trong cảnh sống tha hương, với anh ta, đã trở thành một nhu cầu nội tại. Ý thức về sự viết ấy, do vậy, gắn liền với ý thức về sự đọc, người đọc: “Trong bất kỳ một tự sự nào cũng có niềm hy vọng, về sự giao tiếp giữa tác giả và người đọc, sự giao tiếp ấy bất chấp những cách trở không gian và thời gian” (Cuốn sách đầu tiên). Trong điểm nhìn song hành, kết nối đó, độc giả được mong đợi là người có vốn sống văn hóa, lịch sử, có nhận thức, tư duy biện chứng và hơn hết, có khả năng cung cấp thêm những cách nhìn, cách nghĩ mới về đời sống, con người và tác phẩm. Và vì thế, cuốn sách sẽ được bổ sung, làm đầy thêm, đồng thời, được nhắc nhở về những khả thể, những bí mật tồn tại khác: “Cuốn sách của anh cũng thế, chỉ mấy trăm trang nhưng chúng ta sẽ đọc nó nhiều lần, mỗi lần một khác vì câu chuyện mà anh kể lại chỉ là một phần đời sống, của tình yêu chúng ta, chỉ là một khía cạnh của hiện hữu, như ngọn đèn chỉ chiếu rọi một mặt, phía sau không nhìn thấy” (Người đọc).

Cuốn tiểu thuyết được cấu trúc theo sự song hành, xoắn bện giữa trật tự sự kiện và trật tự hồi ức (vốn không tuân theo logic tuyến tính và mạch thời gian vật lí) của người kể. Mạch sự kiện theo thời gian vật lí đảm bảo sự mạch lạc, sáng rõ của câu chuyện. Mạch hồi ức nhấn mạnh vào những điểm sáng hồi ức mà người kể muốn kể, muốn nhớ, và cả những “điểm mù” mà anh ta muốn quên đi (tuy nhiên chính cơ chế tự xóa của trí nhớ, tự nó, có khi còn bộc lộ nhiều điều hơn so với khi mọi thứ được bạch hóa, được nói ra một cách thông suốt, tỏ tường, chẳng hạn, đấy là một cách để tâm trí cá nhân tự bảo vệ trước những nỗi đau quá ngưỡng). Từ điểm nhìn của người kể, cũng là người tham dự, người sống trải, mỗi sự kiện, chi tiết được nhớ lại thường được hồi cố rất kĩ lưỡng, được lật qua lật lại trong trí nhớ, ở nhiều giao diện, góc độ, ấn tượng. Và không chỉ sự việc, hành động, mà không gian, thời gian, bối cảnh, thậm chí cảnh sắc, mùi vị, ánh sáng… trong mỗi khoảnh khắc ấy được tái hiện lại sắc nét và sáng rõ như một cuốn phim quay chậm. Ở đây, trọng tâm của tự sự không phải là các sự kiện, hành động (dẫu rằng vẫn có sợi dây sự kiện nối liền mạch chuyện) mà là các hình ảnh, chi tiết (nhiều khi hết sức nhỏ bé và riêng tư, bất ngờ) về chúng, là những kí ức, hồi tưởng (có thể không trùng khít với sự thật đã xảy ra) về chúng. Sự suy ngẫm ấy, hành động hồi tưởng ấy, những cảm giác, cảm nghĩ được đánh thức ấy mới là yếu tố then chốt của mạch tự sự này. Nói cách khác, thay vì cách tiếp cận đề tài mang tính “đại tự sự”, người kể chuyện chọn cách tiếp cận “tiểu tự sự”, ở đó, anh ta hiện diện không phải với tư cách kẻ tường thuật ngoài cuộc, mà với tư cách người trong cuộc - chủ thể trải nghiệm, suy tưởng. Mỗi đoạn trong cuốn tiểu thuyết thường tập trung vào một tiểu chủ đề, với một vài sự việc, hành động ít ỏi và rất nhiều những đoạn trữ tình ngoại đề đan xen. Hành động, sự việc dường như được hãm chậm để người kể có thể một lần nữa quan sát lại đời sống, sự việc, hành động và cả bản thân anh ta trong những thời điểm đã thuộc về quá khứ. Thủ pháp hiện tại hóa quá khứ này cho phép anh ta sống lại một lần nữa, trong thời khắc ấy, trong tất cả niềm hy vọng, nỗi đau đớn, sự khát khao của dĩ vãng, và giờ đây, được bổ sung thêm bởi tuổi tác, sự từng trải, bởi suy tưởng, cả những câu hỏi chất vấn, thay vì vơi đi, lại chất chồng theo tháng năm của cuộc đời. Nhớ lại, như vậy, cũng chính là sống lại. Sống như một cuộc tra vấn liên tục, dai dẳng, không khoan nhượng. Với chính mình. Và thực ra, chỉ với chính mình, cuộc tra vấn ấy mới bỏng rát thế, quyết liệt thế, dai dẳng đến thế, dù rằng, anh ta đồng thời nhận thức rất rõ: “Không một câu chuyện nào tôi kể lại chỉ là kể về tôi. Những người lắng nghe sẽ nhớ lại cuộc đời của chính họ” (Sông Hậu). Như vậy, càng đi sâu vào những trải nghiệm cá nhân, với những bí mật kinh hoàng đau đớn, con người càng có cơ hội để nhận thức sâu sắc, thấu suốt và đa chiều hơn về sự thật của lịch sử và đời sống xã hội - chính trị trong nhiều góc nhìn tham chiếu, từ đó kiến tạo nên nhân sinh quan và hệ giá trị riêng, định hình nên căn cước tinh thần đích thực của anh ta. Sự dai dẳng của kí ức, như tên một bức tranh siêu thực của Salvador Dali, ở đây, mang một ý nghĩa đặc biệt: “Ký ức làm mờ đi giác quan của bạn nhưng mặt khác nó tạo ra sự nhạy cảm kỳ lạ bên ngoài giác quan, như sự tiếp nhận đối với sự thật, như sự nhận thức đối với lòng tin, sự hiểu biết đối với ngôn ngữ” (Vàng xưa đầy dấu chân). Vì vậy, mỗi hành động cụ thể được nhớ lại, kể lại đồng thời cũng là một tình thế mang tính tượng trưng. Nó nói nhiều hơn những gì có thể về sự lựa chọn và bi kịch sống của con người. Ta có thể đọc các phần, đoạn này như yếu tố hữu cơ trong mạch truyện, trong chuỗi liên kết các sự kiện, đồng thời, có thể đọc chúng như những đoản văn có tính độc lập tương đối, hàm chứa nhiều chất thơ, chất triết luận về đời sống, con người.

Tác phẩm có sự kết hợp và chuyển dịch giữa nhiều điểm nhìn. Vừa là điểm nhìn của người kể chuyện (ngôi thứ nhất, xưng tôi, kẻ trải nghiệm tất cả hành trình đau thương kia), đồng thời là một cái tôi - tác giả khác: một triết gia, một nhà văn, song hành và vượt ra ngoài, bao trùm cái tôi kia. Vừa là điểm nhìn bên ngoài, khách quan, bao quát và không bỏ sót các chi tiết quan trọng nào, đồng thời là cái nhìn bên trong của nhân vật, thấm đẫm những rung động và xúc cảm vi tế, cá biệt. Trong và ngoài. Thực và mộng. Hiện thực và suy tưởng. Tất cả là một - cái làm nên bản chất đích thực của đời sống này. Dõi theo từng giây phút của đời sống, lắng nghe nó, ngẫm nghĩ về nó. Sự kết hợp và dịch chuyển linh hoạt điểm nhìn này lí giải vì sao người kể chuyện (và đối tượng được kể) liên tục thay đổi đại từ nhân xưng trong một đoạn văn ngắn: “Em lôi trong túi áo mưa ra một ổ bánh mì xá xíu, giữ kỹ suốt ngày nhưng vẫn ướt, đưa cho anh, anh nhìn ra dấu hỏi, em bảo em ăn rồi. Tôi cầm ổ bánh mì trong tay, cắn từng miếng, cố nuốt, nhìn những sợi mưa cắt qua khuôn mặt tái xanh của nàng. Tôi nuốt không được. Bánh mì ướt mắc nghẹn trong cuống họng. Tôi nhai những sợi mưa trong cổ họng. Những sợi mưa đục, dai, dài dằng dặc. Gió thổi vàng đám lá bàng bay cuốn nhiều vòng trên bến xe. Khi tôi nhớ lại tất cả những điều ấy, ngực tôi đau nhói. Bạn bỏ nhà ra đi khi còn trẻ tuổi. Thế là, những ngày sau, bạn đều ngoái lại. Không phải chỉ là căn nhà, cái sân gạch, bạn ngoái lại tuổi thơ của mình, ngoái lại thời gian” (Ngõ hẻm). Anh/ em, tôi/ nàng, tôi/ bạn, là những góc nhìn, tương quan và đối tượng mô tả, giao tiếp khác nhau. Đó là sự dồn tụ, chồng lấn, giao thoa, đồng hiện của nhiều chiều kích không - thời gian, kết hợp giữa quá khứ và hiện tại, giữa thực tế và mộng tưởng. Nó là kết quả giao cắt giữa hai tiến trình: 1) mạch diễn tiến tự nhiên của chuỗi sự kiện và 2) sự hồi cố của người kể chuyện, từ cuối cuộc hành trình, hoặc từ ga cuối cuộc đời, hồi tưởng, nhớ về.

Thuyền kết hợp chặt chẽ giữa tính chi tiết, cụ thể và tính tượng trưng, khái quát. Nhiều chi tiết sắc lạnh, đầy ẩn ức và ám ảnh. Và cực thực. Thực đến kinh hoàng, đến buồn nôn, toát mồ hôi lạnh, như thể chỉ có trong những ảo giác dữ dằn, khốc liệt, dị thường nhất. Và đau đớn khủng khiếp. Vì lí do này hoặc lí do khác, một số sự kiện có thể bị quên lãng hoàn toàn, nhưng một số chi tiết thì sống mãi, nhói buốt, sắc lẹm như một lưỡi dao. Chẳng hạn, trong Sữa, Vịnh Thái Lan, Lửa trên thuyền, Thủy táng… Những trạng thái tinh thần cùng cực, khốn cùng, đẩy đến đỉnh điểm giới hạn chịu đựng. Nhiều phần, đoạn là sự kết hợp chặt chẽ, tinh vi đến ngạt thở các chi tiết kể, tả. Chết chóc, chấn thương thảm khốc. Trạng thái cận tử, cảm giác thoát xác, những ảo giác, mộng mị, mê loạn,… Những sự kiện, chi tiết, hình ảnh ấy nhắc con người không quên, không được phép quên, phải  nhìn thẳng vào sự thật và chấp nhận nó, dẫu là những sự thật đau đớn, tàn bạo nhất, bởi chối bỏ nỗi đau ấy, tấn thảm kịch ấy, thực chất là chối bỏ chính mình. Nhận thức, đánh giá lại kí ức, quá khứ, lịch sử trong cái nhìn hiểu biết và tôn trọng sự thật, đó là cách để mỗi một cá nhân cũng như một cộng đồng, một dân tộc vượt qua được những chấn thương trong chính tâm hồn mình, trở nên can đảm, mạnh mẽ, tiến bộ. Tuy nhiên, trong cuốn tiểu thuyết, bên cạnh những đoạn đầy dữ dội, ám ảnh, lại có những câu chữ rất đẹp, như chứa ánh sáng tự bên trong. Đầy chất thơ. Và dịu dàng, xót thương, an ủi. Hình ảnh người mẹ trong vườn đêm nở trắng hoa lài, gương mặt ửng hồng trong gió tối của của Liên Hương, con mắt nửa trêu cợt nửa thương xót của cô gái dân quân, khuôn mặt tươi cười của thằng bé thổ dân da đỏ, tình bạn của Jen, cô sinh viên y khoa nơi miền đất mới... là lời nhắc rằng, sau bao nhiêu tàn bạo, ly tán, hận thù, vẫn còn đó những giá trị gốc rễ, cho con người “đường về”: sự gắn bó sâu xa với cội nguồn, tình thương yêu, lòng trắc ẩn, sự thấu hiểu, nhân tính... Thuyền chênh chao giữa hai bờ ảo giác và hiện thực, xót thương và trần trụi, chi tiết và tượng trưng, cực thực và hư ảo, mộng mị.

Những suy tư về sự thật, nỗi đau, tình yêu, tự do, cái đẹp và thân phận con người xuất hiện khá thường xuyên trong cuốn tiểu thuyết. Chúng gắn liền với chuyến hải trình, với hành động (và cả sự bất lực, không/ không thể hành động) của con người trong những tình huống sống còn tàn nhẫn, tuyệt vọng. Rõ ràng cái đẹp hay cái thiện, phẩm giá, nhân cách hay đạo đức của con người cần phải được thử thách và đánh giá bằng những tình thế hiện thực chứ không phải bằng những lời rao giảng. Chỉ trong những tình thế thử thách đó, chân giá trị mới được bộc lộ. Tuy nhiên, đó cũng là những nan đề triết học – đạo đức đầy thách thức, ở đó, không phải lúc nào ranh giới đúng/ sai, tốt/ xấu, can đảm/ đớn hèn… cũng có thể được phân định và chứng minh một cách rạch ròi. Đó là những giá trị mà muốn có, muốn nhận diện, muốn khẳng định, cái giá phải trả có khi là cả một tấn thảm kịch: “Tôi không nhìn rõ khuôn mặt của cô gái ấy, bao giờ cũng chỉ là cái bóng. Như cái ảnh trong gương khi tôi quay mặt đi, là mình mà không phải là mình. Cái bóng ấy là tình thương xót chiếu rọi lại. Nó là ý nghĩa của tình đồng bào. Nó là mơ ước về cõi tự do, thanh bình, đã từng có, của tất cả chúng ta. Con người phải vượt qua những chặng đường nào để đi từ thù hận đến quên lãng, từ chia ly đến đoàn tụ, tôi không thể biết” (Bài hát của cỏ lau).

Là tiểu thuyết, nhưng Thuyền sử dụng khá nhiều biện pháp tu từ của thơ ca, chẳng hạn trùng điệp, ẩn dụ, so sánh, liên tưởng. Mạch suy tưởng thường bắt đầu từ những hình ảnh, chi tiết có vẻ nhỏ nhặt, xuất hiện ngẫu nhiên như mùi hoa muồng vàng trong gió, hương cà phê, một chiếc giày trẻ con rơi, chiếc vòng cẩm thạch sáng lên trong bóng tối…, nhưng rốt cục, chính những chi tiết nhỏ bé, bâng quơ ấy lại dẫn người đọc đến với không gian mênh mông của kí ức, hoài niệm. Liên tưởng càng xa rộng, càng gây bất ngờ, càng có khả năng chạm đến tầng sâu xúc cảm và suy tưởng. Một số trang trong cuốn sách được trình bày theo hình thức của văn bản thơ, nghĩa là trừ lại khá nhiều khoảng trống, khoảng trắng trên mặt giấy. Câu văn co duỗi uyển chuyển, nhẹ nhõm, thanh thoát, nhờ vào cách ngắt nhịp, sự kết hợp linh hoạt giữa các loại câu dài/ ngắn, thủ pháp trùng điệp, luyến láy, các câu hỏi tu từ… Ví dụ:

Có một nơi trên trái đất ở đó người ta không chết, họ chỉ biến mất.
Bạn hỏi: tôi có đi được không?
Không.
Có.
Bạn hỏi: tại sao tôi phải đi?
Tại sao không?
Tôi có thể để lại một thứ gì, không mang theo, được không?
Không.
Ý nghĩa của sự ra đi?
Biến mất khỏi một đời sống.
Tức là chết?
Không. Từ chối nó.

             (Thầy bói)

Ta có thể tách riêng nhiều đoạn văn để đọc trong sự ngẫm nghĩ và chia sẻ, đồng thời để thưởng thức nhạc tính và độ âm vang đặc biệt của chúng, chẳng hạn:

- “Không có gì lạ lùng hơn, huyền bí hơn khoảnh khắc tôi ngồi im, lòng tin tưởng, nhìn vào chính khoảnh khắc ấy, cố gắng đi tìm ý nghĩa của nó. Tôi biết trong một giây phút như thế, một buổi chiều như thế, dưới cơn mưa nhỏ, thời gian sẽ đứng lại”.

(Thầy bói)

- “Sông Hậu đẹp như một giấc mơ. Tình tứ, đỏ, hung dữ. Tôi tới đó đêm ba mươi, đã khóc, đã cười, quét sạch dấu vết, biến mất, và bây giờ dòng sông nhớ lại. Nó chảy chậm khi qua bến Ninh Kiều: tất cả những dòng sông đều chảy chậm khi nhớ lại”. 

(Bến Ninh Kiều)

- “Cuộc sống một trăm năm cũng có thể một ngày, biển giờ đây mang tôi trở lại cố xứ. Giờ này trong đêm, nhà cũ có một bông hoa lài mới nở trắng bên thềm. Càng khuya những bông hoa càng nở trắng. Hoa được sinh ra cho những người thương khó, an ủi họ, nâng đỡ họ. Tôi nhìn thấy mẹ tôi đi qua vườn, đặt tên cho những cây ổi và cây cam, những cây chanh và cây mận của bà, cho phép chúng có khả năng trò chuyện và nhớ lại giữa những lau lách mọc đầy vườn sau chiến tranh, khi khu vườn còn hoang dại”.

(Mẹ tôi)

Đứng riêng ra, ở những đoạn văn ấy toát lên một vẻ duyên dáng lạ lùng. Trong nhịp điệu thanh thoát, nhẹ nhõm của câu văn. Trong những hình ảnh như vừa vụt hiện lên từ thẳm sâu hoài niệm. Trong những suy tư lắng đọng và thâm trầm.

Nhưng trong tiểu thuyết cũng có nhiều đoạn văn dài được viết liên tục, ngắt vế bằng dấu phẩy, không dùng dấu chấm, không xuống dòng, như dòng chảy độc thoại miên man với kí ức, hư ảnh, kỉ niệm (Mùa hè); như cuộc đối thoại giả tưởng giữa người đọc với người kể (Người đọc); hoặc như cơn mộng dữ điên cuồng, không chấm dứt, không biết bao giờ mới chấm dứt (Cơn sốt)… Cũng có nhiều đoạn thoại rời rạc, ở đó, ngôn ngữ dường như không tương thích với suy nghĩ. Thực chất đó là cuộc độc thoại nội tâm của người kể chuyện. Trong trùng trùng hư ảnh. Trong nhớ thương, đau đớn, dày vò: “Tôi biết rằng tôi cần ngôn ngữ khác, một ngôn ngữ hình ảnh, vượt ra ngoài ngôn ngữ thông thường, để diễn tả cảm giác ấy, về sự mất mát, về sự cứu chuộc, về ý nghĩa của tồn tại” (Cơn sốt).

Cuốn tiểu thuyết được kết cấu dựa trên trục biểu tượng mà trung tâm là Thuyền và vây quanh là các biểu tượng nhỏ hơn (Liên Hương, Mẹ, những đứa trẻ, bầy cá heo, những con bướm…), chúng xoắn bện vào nhau tạo thành một hệ thống biểu tượng. Các ý tưởng được phân mảnh và tổ chức thành các đoản văn tương ứng, chúng xâu chuỗi với nhau, tạo thành một hệ chủ đề mà nội dung, ý nghĩa cốt lõi nằm trong hành trình ra đitrở về. Xin lưu ý, tên của cuốn tiểu thuyết chỉ có một chữ - Thuyền. Chính bằng thủ pháp giản lược, tính chất tượng trưng của hình tượng và tình huống câu chuyện càng trở nên rõ nét. Vượt lên những chất liệu hiện thực - lịch sử cụ thể, Thuyền là một biểu tượng giàu rung động và sức ám ảnh, mang chứa những ý nghĩa sâu sắc. Từ góc nhìn xã hội, có thể hiểu Thuyền như là biểu tượng của những số phận con người trôi dạt trên một hải trình lịch sử đầy máu và nước mắt của dân tộc. Từ góc nhìn cá nhân, Thuyền tượng trưng cho hành trình con người đi tìm chính mình, can đảm đối mặt và vượt lên những ám ảnh buồn đau của kí ức để có thể tìm thấy ánh sáng cứu rỗi. Từ góc nhìn sáng tạo, có thể hiểu Thuyền là biểu tượng của một hành trình viết đầy phức tạp, đi từ những ý tưởng sơ khai, thầm kín, nung nấu hoặc rời rạc trong tâm trí để trở thành một cấu trúc truyện kể, một Tác phẩm nghệ thuật... Đấy là một hành trình chứa đầy bóng tối, nỗi đau, niềm tuyệt vọng. Nhưng đấy cũng là hành trình của niềm tin, tình yêu cùng hy vọng tái sinh và đoàn tụ. Tình yêu giữa Tôi, người kể chuyện và Liên Hương. Tình yêu giữa kẻ sống và người chết. Người còn và kẻ mất. Tình yêu của kẻ ly hương và quê hương, đất nước, nguồn cội. Tình yêu, nỗi đau, sự xót thương, niềm hy vọng. Xuyên qua không gian và thời gian. Xuyên qua sự tàn bạo, hận thù, ly tan. Xuyên qua bóng tối, cái chết.

“Có phải em còn sống không?
Im lặng.
Hãy chỉ cho anh chỗ ở của em?
Im lặng.
Bàn tay của anh đâu? Sau một hồi, cô bỗng hỏi.
Tôi đưa hai bàn tay lên.
Xòe tay ra, cô bảo.
Tôi xòe tay ra. Bàn tay phải. Rồi tay trái. Tôi đưa cả hai tay lên. Khuôn mặt người đàn bà gọi hồn trở nên tinh khiết lạ thường. Cô nhìn đăm đăm vào bàn tay trái, vào chiếc nhẫn vàng không còn ở đó. Hồi lâu. Cô nhắm mắt lại. Nhắm chặt, hai hàng lông mi dài của cô khẽ rung lên như những cánh bướm”.

(Gọi hồn)

Có thể nói, sau tất cả, Thuyền là thông điệp hướng về những giá trị vĩnh cửu như sự thật, tình yêu, sức mạnh cội nguồn, ngôn ngữ dân tộc và tinh thần sáng tạo. Đây là nguồn mạch tái sinh tinh thần, tư tưởng, giúp  “tôi” - người kể chuyện trong cuốn tiểu thuyết - có thể vượt lên những tổn thương, chia rẽ, hận thù sâu sắc trong quá khứ và tìm được niềm tin để kiến tạo tương lai của chính mình. Đó cũng là lựa chọn nhận thức và hành động của người viết - tác giả, nhà văn Nguyễn Đức Tùng.

Trước khi đến với tiểu thuyết, Nguyễn Đức Tùng đã thử sức với thể loại khác: phê bình, thơ, tản văn… Ở thể loại nào, tác phẩm của ông cũng thể hiện được phong cách tư duy và lối viết riêng, giàu suy tưởng, sắc sảo và tinh tế. Sự ngắn gọn, hàm súc trong hình thức văn bản, sự phong phú của các tiểu chủ đề triết luận, sự xuất hiện dày đặc của các  hình ảnh – biểu tượng, tính trữ tình, độ âm vang và dư ba của câu văn… cho thấy sự giao thoa thể loại khá rõ trong Thuyền. Điều này cho phép chúng ta, như đã nói trên,  có thể đọc Thuyền như một tiểu thuyết (đương nhiên), đồng thời, vẫn có thể tách riêng một số phần và tiếp nhận chúng như những đoản văn/ tạp văn độc lập (có nhiều đoạn như những bài thơ văn xuôi đầy nhạc tính và ý vị). 

Chiến tranh và thời hậu chiến, hiện tượng di dân và con người chấn thương là đề tài quen thuộc trong nhiều tác phẩm của văn chương thế giới, ví dụ trong sáng tác của Ernest Hemingway,  Erich Maria Remarque… Gần hơn, có thể thấy sự gần gũi về mặt đề tài giữa tiểu thuyết Thuyền của Nguyễn Đức Tùng với tập truyện Người tị nạn của Nguyễn Thanh Việt hay truyện ngắn Con thuyền của Nam Lê. Cũng có thể thấy một số điểm tương đồng giữa hai cuốn tiểu thuyết Thuyền Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh) trong cách khắc họa hình tượng con người chấn thương và một số kĩ thuật viết. Tuy nhiên, xét về cả chủ đề lẫn hình thức thể loại, Thuyền của Nguyễn Đức Tùng là một cách tiếp cận, xử lí và cấu trúc nghệ thuật riêng, đầy ý nghĩa. Là một hải trình của thảm kịch, nỗi đau, niềm tuyệt vọng và hy vọng cứu chuộc, Thuyền chứa đựng những “bí mật của truyện kể” (Tzvetan Todorov), tức các yếu tố cấu trúc nghệ thuật đặc thù tạo nên sức hấp dẫn và hiệu quả của câu chuyện. Sự kết hợp chặt chẽ giữa tính hiện thực và tính trữ tình – suy tưởng; giữa tính chi tiết, cụ thể và tính khái quát, tượng trưng; giữa ý thức tỉnh táo thể hiện qua sự tôn trọng tính khách quan của sự kiện và nhu cầu bày tỏ tiếng nói chủ thể thông qua những cảm giác, cảm xúc cá nhân sâu sắc, bén nhạy…, tất cả đã giúp Thuyền thiết lập nên một mối quan hệ giao tiếp đặc biệt giữa người viết và người đọc. Đó là một hải trình giúp khơi mở nhiều bí mật của cuộc đời, lịch sử và nghệ thuật, nhằm đạt đến cái đích của sự viết, như chính người kể chuyện đã bày tỏ: “Tiểu thuyết không phải là cách thoát khỏi thực tại, tiểu thuyết là cách nhìn vào thực tại, nhờ thế tình yêu được trở lại là nó, là thân xác và ngôn ngữ” (Người đọc).

                                                                                  Vinh, 19/4/2025

                                                                                          L.H.Q.




  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét