TIẾNG TRĂM NĂM VỠ
(Về tập thời
gian ăn tôi bằng mọi giác quan của Linh Văn, Nxb Đà Nẵng, 2025)
nghe thời gian nứt ra từ kẽ đá
tiếng trăm năm vỡ dưới cội thông già
(bài
thơ về người say bóng đêm)
Lê Hồ Quang
Ngay
từ nhan đề tập thơ - thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan - thời
gian, thay vì một ý niệm trừu tượng, đã được hữu hình hóa, vật chất hóa thành một
chủ thể hành động mạnh mẽ. Con người, ngược lại, bị đẩy vào thế bị động, trở
thành đối tượng bị tác động, biến đổi. Dẫu vậy, bất chấp sự tường minh trong cấu
trúc ngữ pháp này, hình tượng thời gian cũng như mối quan hệ giữa thời gian và
con người trong tập thơ vẫn hiện lên như một câu đố của Sphinx.
Ta hãy bắt đầu từ hình tượng thời gian. Từ góc nhìn nội cảm, thời gian được chú trọng trong tập thơ không phải là thời gian bên ngoài, tuyến tính, đồng nhất và có thể chia cắt mà chủ yếu là thời gian bên trong, là thời gian mà con người sống và trải nghiệm trong ý thức, cảm giác. Nó là một dòng chảy liên tục, không thể chia cắt, nơi quá khứ thấm nhuần vào hiện tại và định hình tương lai, hoặc, nói theo cách của Walt Whitman: "Quá khứ và hiện tại đã héo tàn - tôi đã đổ đầy và rót cạn/ Và bây giờ tôi sắp đổ đầy cái phần tôi kế tiếp của tương lai" (Bài hát chính tôi, Hoàng Hưng dịch). Dĩ nhiên, rất khó để đo lường thời gian này bằng các đơn vị vật lí bên ngoài, bởi nó hình thành từ “một nguyện ước riêng tư và thành thật/ về một khoảng trời đã mất” (vọng âm), được định vị, định tính bằng không gian tương ứng, cũng đã được cá nhân hóa. Đó là khoảng trời tuổi thơ: ấu thơ là chuỗi ngày dài ngóng đợi/ một tiếng động dội về từ vách núi bên kia (tiếng thở trong vườn); là miền đất quê hương: thị trấn nhỏ nằm ven dốc hoa vàng/ một cái cây như vị khách không mời/ trước ngôi nhà có tầng áp mái/ ô cửa sổ thơ mộng (thị trấn); hoặc một địa danh mà con người từng sống trải: “sài-gòn/ sài-gòn/ hẻm hóc chôn chúng ta vào mê cung/ rối rắm vòng vèo trí nhớ (những ngày mưa chầm chậm)… Đó là không – thời gian của yêu thương: thị trấn nhỏ/ giấu cuộc tình nho nhỏ/ một gói nho khô, một cánh pensée/ chàng thiếu niên đứng bên thành cầu nôn nao chờ đợi/ trái tim nhảy một điệu valse (thị trấn)…; và nỗi đau đớn, tuyệt vọng: bao điều chưa nói ứa ra như nhựa cây sau mỗi vết chém/ và anh đáp lời em bằng thứ màu đỏ kia/ từ hốc mũi trên gương mặt cứng đờ/ cuộc hội thoại của xương/ và máu (cho Anh của em (1976-2023))… Thời gian này vừa có thể đo đếm được bằng các con số ngày/ tháng/ năm, đồng thời rộng lớn hơn, bí ẩn và khó thấu suốt hơn. Đó là thời gian đã được cảm xúc hóa, tinh thần hóa: những ngày im lặng thả ngón tay trỏ của mình/ xuyên qua những tầng biển sắc nhọn/ để chạm vào thương tích của một ngày khác (thương tích); tất cả chỉ là một nhát cắt dọc chiêm bao/ đổ thời gian xuống mặt phẳng không gian/ còn cách nào khác ngoài việc khẽ chạm từng hình bóng/ để cảm nhận sức nặng kí ức/ bám trên đầu mỗi ngón tay như bụi (từ một tấm ảnh gia đình)…
Từ góc nhìn siêu nghiệm, tác giả phát hiện
ra những chiều thời gian khác, vượt ngoài thời gian cá nhân, cho phép anh ta “nhìn
thấy”, “nghe thấy” chính mình trong những đặc điểm nhân dạng và bản
thể khác. Danh tính của tôi trong hiện tại, thực chất chỉ là “bụi tro”
trong thăm thẳm: anh ngỡ mình với tay ra là có thể chạm tới/ anh của bờ
bên kia, nhưng không/ thời gian đã kéo giãn mọi thứ, gồm cả sự thật về chính
nó/ thành những ốc đảo riêng biệt (giữa tháng Hai và tháng Tư); và
tay chân mắt miệng này là của ai đó khác/ và nhịp thở ngắn dài này/ là ảo tưởng
về trần thế vốn đã bị cầm tù từ lúc sinh ra/ và cái bóng dưới chân tôi bắt đầu
cuộc lữ triêng của nó/ về một nơi ta chỉ có thể nghe mà không nói, thấy mà
không nhìn (rời bỏ). Thời gian ở đây không bị giới hạn bởi cuộc
đời cá nhân hữu tử và hữu hạn, với những kinh nghiệm sinh tồn, mà được nhân
lên, bởi “lời thầm” của những cái tôi khác, mượn cái tôi này để cất lời,
như tác giả đã viết: “tất cả những bài thơ này được viết bởi tôi (…) nhưng cũng
có thể được viết bởi một hay nhiều ai đó khác, những người, những vật, những chữ
đã không còn cơ hội nào để cất lên tiếng nói từ hiện diện của chính họ”[1].
Việc chiêm ngắm cá nhân trong chiều kích thời gian vũ trụ sẽ đẩy tới những suy
ngẫm, nhận thức mang tính bao quát về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, sự
sống và cái chết, cá nhân và lịch sử, mất và còn, hữu hạn và vô hạn... Cái chết
không chỉ được nói đến như một danh từ, nó được mô tả như một trạng thái chuyển
hóa từ cõi sống này sang cõi sống khác, từ vũ trụ này sang vũ trụ khác và từ
tôi sang phi-tôi: mọi ngả đường cùng dẫn về một chốn ở trong lòng
thị trấn/ nơi tôi đứng dưới gốc cây khô/ những năm tháng xung quanh vừa rơi vừa
bốc cháy (lời tro). Tác giả nói nhiều đến những cảm giác siêu
nghiệm, vượt ra ngoài kinh nghiệm sống thông thường, không thể cảm nhận đơn thuần
bằng các giác quan vật chất, cảm giác về sự vắng mặt và những vọng
âm, ảo giác hay những lời tro, lời thầm… Trong
đại lượng thời gian này, cái tôi hiện diện đồng thời cũng là cái tôi “khiếm
diện”, vừa là cái tôi tiểu sử, có những trải nghiệm cụ thể, đầy cảm xúc,
nhưng đồng thời cũng là cái tôi đã sống trải “những nơi tôi chưa từng đến”,
“những năm / không có trên một cuốn lịch nào”, và cả “nỗi chết êm như
nắng”:
đôi
khi
tôi
ước ai đó lẻn vào giấc mơ tôi hằng đêm
để
lấy đi một màu hoặc một mùi
ai
đó mượn kí ức tôi tạo nên
bản
mô tả của các giác quan
về
những nơi tôi chưa từng đến
…
ai đó mượn thời gian của tôi để bước lên
chuyến xe mù căm thế kỷ
cứ thế trôi xa khỏi quỹ đạo mùa màng
mượn tên tôi gọi những thứ không tên
trở về bằng vụn xương khô từ dưới vực gió trắng
…
và mượn hồn tôi viết câu thơ thứ nhất
với
nhịp đập liên hồi bên trong những tử cung
(nhịp đời thứ nhất)
Sự “vọng âm” tạo nên tính chất mơ hồ trong nhân diện cái tôi, sắc màu hư ảo ngưng đọng trong khung cảnh không – thời gian và âm thanh, ánh sáng, mùi vị vĩnh viễn mà nó mang theo:
nắng cắt đôi mọi thứ
giữa cái ly ánh sáng vô tận
giọng con chim lạ gọi tôi
về dưới bóng râm tháng Bảy
em cứ đến ngồi cạnh bên thế thôi
bởi tôi là khoảng trống
hãy đậu xuống bản hòa thanh điền dã
cái bóng nhỏ như nốt lặng của em
(tiếng thở trong vườn)
Cảm giác "vọng âm vĩnh cửu" trong những câu thơ vừa dẫn ở trên gợi nhớ đến cái nhìn về thế giới trong chiều sâu trực giác và tâm linh của William Blake: Thấy Thế Giới trong một Hạt Cát nhỏ/ Và Thiên Đường trong mỗi Đoá Hoa Tươi/ Giữ Vô Hạn trong bàn tay hé mở/ Và Thiên Thu trong khoảnh khắc cuộc đời (Sấm ngôn của tuổi thơ ngây, Pháp Hoan dịch). Đấy là những cảm giác hiện hữu vừa sống động, cụ thể vừa xiết bao trừu tượng.
Như một hệ quả của cái nhìn thế giới này, trong một số bài thơ khác của Linh Văn, ta gặp một trạng thái tâm lí khá đặc biệt – trạng thái đã
thấy (déjà vu). Đấy là cảm giác quen thuộc kì lạ dù đấy là sự việc mới xảy
ra hoặc mới chứng kiến. Có thể hình dung trạng thái này như một khoảnh khắc của
sự đồng bộ vũ trụ, khi các sự kiện hiện tại trùng khớp với một sự kiện đã tồn tại
trong tiềm thức hoặc trong một chiều không – thời gian khác. Trạng thái này gợi
lên những câu hỏi về thực tại, số phận, và những điều vượt quá sự hiểu biết
thông thường. Có lẽ đây cũng là một cách để cái tôi cá nhân khám phá đời sống,
thời gian, nỗi đau và những ký ức bị chôn vùi:
hãy
để tôi ở nơi không còn ai nhìn thấy
dọc đường đi của chú ốc sên
bò rất chậm như thể đang lùi lại
nơi mỗi ngày mặt trời mọc từ đằng Tây
rồi lặn đằng Đông
lá ăn mảnh vườn đêm bằng giọng nói côn trùng
nơi cây cối đâm chồi xuống các tầng vô định của quá khứ
và bám rễ vào một tương lai đã biết trước từ đầu
(lời
tro)
Bản
thể cá nhân, theo góc nhìn này, là cái liên tục được hình thành, biến đổi cùng
với mỗi thời khắc trôi chảy của thời gian. Như vậy, cùng với “thời gian ăn
tôi bằng mọi giác quan”, thời gian hủy hoại tôi, tiêu biến tôi, đồng thời
cũng tái tạo tôi, tái sinh tôi. Thay vì là phương tiện, công cụ, thời gian trở
thành Đấng Sáng Tạo, Đấng Hủy Diệt và Tái Sinh. Nhà thơ buông tay vào lò luyện
thời gian, nhận ra mình trong tư cách một sản phẩm thời gian và anh ta được tưởng
thưởng: từ góc nhìn sâu bên trong, anh ta nhận ra bí mật của cuộc sinh hóa bất
tận và sự hiện hữu của những chiều thời gian song song, mà trong mắt thường vốn
vô hình.
Bài
thơ sau là một ví dụ.
về
một mảnh kí ức của chàng Narcissus
nhiều
năm sau, hẳn tôi vẫn còn nhớ đến
cảm
giác ấy: khoảnh khắc phải bước qua một thành phố vắng
với
bàn chân như giấy tan trong lửa
những cột đèn tắt ngúm, huyệt sông sâu chôn đôi mắt đỏ rực
của một vệt sao xa, cái bóng của tôi
dần bò ra khỏi những ngón chân
cho đến khi một cái cây màu đen đột ngột mọc lên phía bờ bên kia
như thể tôi đã đợi tôi ở đó rất lâu
từ một thuở kiếp nào
con đường là giấc mơ của chính nó
về một mê cung không đích đến, tiếng chuông nhà thờ
là lời nguyện cuối cùng về một xứ sở vô thanh
tôi là tôi, ngày mà ánh sáng của sự cứu rỗi
và em và cả chính tôi
rời bỏ tôi
như cách Narcissus chiêm ngắm chính mình
dưới làn nước sông Styx, tôi đặt giữa bài thơ này và em
một tấm gương, mãi mãi thế giới chỉ là phản chiếu
của chính nó nếu em nhìn sâu vào bên trong, hoặc chẳng là gì cả
nếu em đập vỡ nó
Bài
thơ nói về một khoảnh khắc đặc biệt. Khoảnh khắc hạt cơ bản, dồn nén trong
nó cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Đó cũng là khoảnh khắc con người bước qua
lằn ranh giữa không gian hữu thức và vô thức. Thay vì một ý niệm, hành trình
vào cõi vô thức hiển hiện như một hành trình đầy cảm giác: khoảnh khắc
phải bước qua một thành phố vắng/ với bàn chân như giấy tan trong lửa. Vô
thức hiện lên bằng nhiều biểu tượng bí ẩn (cái bóng, mê cung, giấc mơ, sông
Styx, tấm gương…) hàm chứa trạng thái lo âu, bất an: huyệt sông sâu
chôn đôi mắt đỏ rực, cái bóng của tôi dần bò ra khỏi những ngón chân; một cái
cây màu đen đột ngột mọc lên phía bờ bên kia… Thành phố lạ với những
mê cung lạnh chính là không gian vô thức với những chiều kích tinh thần rộng lớn,
bí ẩn. Cái bóng là một phần nhân cách vô thức, một thuộc tính, phẩm chất ít được
biết đến của bản ngã. Trong “thành phố vắng” của vô thức, tôi đã gặp ẩn
ngã của mình - “cái bóng của tôi”, như thể “tôi đã đợi tôi ở đó rất
lâu/ từ một thuở kiếp nào”. Là tôi - là hình và bóng - “tôi là tôi, ngày
mà ánh sáng của sự cứu rỗi/ cả em và cả chính tôi/ rời bỏ tôi”. Vốn là hình
tượng ái kỉ quen thuộc trong thần thoại Hy Lạp, nhưng ở đây, Narcissus có thể
được hiểu như một cá nhân khao khát tự nhận thức, trên lằn ranh hữu tử và vô hạn
và là sự phóng chiếu bản ngã của tôi trong thế giới vô thức. Hành trình tìm kiếm,
nhận thức bản ngã ấy được hình dung như một “con đường là giấc mơ”, một
“mê cung không đích đến” hay “một tấm gương” soi chiếu. Hành
động “tôi đặt giữa bài thơ này và em/ một tấm gương” là để đi đến nhận
thức “mãi mãi thế giới chỉ là phản chiếu/ của chính nó nếu em nhìn sâu vào
bên trong, hoặc chẳng là gì cả/ nếu em đập vỡ nó”. Tấm gương là biểu
tượng của năng lực suy ngẫm, nhu cầu tìm kiếm sự thật và sự hướng nội. “Nhìn
sâu” vào tấm gương để tự nhận thức hay “đập vỡ” nó để đối diện với
thực tại nghiệt ngã, trần trụi là những lựa chọn hiện sinh. Hành động nào cũng
đòi hỏi sự suy ngẫm, ý thức và trách nhiệm cá nhân. Mỗi lựa chọn hành động gắn
liền với những khả năng và khả thể tồn tại vô cùng khác biệt của cá nhân trong
những chiều thời gian song song. Trong khoảnh khắc mang tính khải thị, cái tôi
trữ tình bỗng thấu suốt về mối quan hệ giữa bản thân và thời gian: anh ta phụ
thuộc vào nó, bản thể anh ta được xác lập và kiến tạo nên bởi nó, anh ta là sản
phẩm được tạo nên từ nó, nhưng đồng thời, cũng chính trong “khoảnh khắc”
và “cảm giác ấy”, con người sống trải thời gian, nối kết trạng thái hiện
tại với quá khứ và (có thể) tương lai, và bằng cách đó, đã tạo sinh một thời
gian chủ thể, duy nhất, riêng cho/ bởi anh ta. Bằng cách đó, thời gian bên
ngoài và thời gian bên trong, thời gian khách thể và thời gian chủ thể, thời
gian vật lí và thời gian thi ca đã phát lộ mối quan hệ gắn kết đặc biệt.
Suy
tư về cá nhân trong thời gian, như một tất yếu, dẫn tác giả đến với suy tư về
thơ, về nghệ thuật, bởi xét đến cùng, đấy là một cách để định hình bản thể của
người sáng tạo: tôi đếm thời gian của tôi bằng thơ/ quá khứ của tôi: những
bài thơ đã được viết ra/ tương lai: những bài thơ chưa viết/ còn hiện tại rỗng
không như chính tôi lúc này/ khi đang đứng trước một bài thơ/ mà chưa tìm ra lối (ở
đâu?)… Thơ là nghệ thuật của thời gian. Nhưng cũng như con người, thơ bị thời
gian điều kiện hóa: thời gian chôn thơ/ thơ chôn thơ/ thời gian của bài
thơ này chôn bài thơ khác (ở đâu?); viết là học cách im
lặng như một cái bóng/ hoặc một giọng nói đã tắt/ kiên nhẫn xếp hàng chữ cuối
cùng/ và chờ đợi (viết); một bài thơ chào đời cũng là một
bài thơ hấp hối/ chữ cấp cho nó một tờ giấy khai sinh/ lại vừa viết một bài ai
điếu để khai tử nó (sẹo ánh sáng). Sáng tạo thơ được hình dung
như một hành động thiêng liêng, đầy bí ẩn, như “Trong Ơn Gọi”, xảy ra “từ
trước thoạt kì thủy”. Viết là hành động được xác định bởi một con người/
cái tôi cụ thể, đồng thời, là một hành động sáng tạo đầy bí nhiệm, có thể được
thực hiện “bởi một hay nhiều ai đó khác”. Khởi thủy thơ được hình dung
như một giọng nói bí ẩn: một giọng nói/ bằng những lời chưa được sinh
ra/ đã lưu vong bên ngoài mọi ngôn ngữ/ cõi mà ánh sáng là một thứ mực phai
trên trang của đêm/ với bài thơ không bao giờ được viết (prelude).
Từ trải nghiệm thực tế sáng tạo, nhà thơ nhận ra yếu tố hiện hữu dày đặc trong
thơ, lạ lùng thay, chính là những “khoảng trống”, đấy là một nghịch lí
có thực: chúng cần vắng mặt/ để làm nên hiện diện/ cho chính bài thơ mà
bạn đang đọc (khoảng trống); và thơ đích thực vượt ra ngoài mọi
tham vọng định nghĩa và mô hình hóa: bài thơ không ở đây cũng không ở
đó/ nó là cái cây không bao giờ được gọi tên/ mọc và chết bên ngoài mọi khu rừng (bài
thơ trong lòng bàn tay)… Bởi vậy, mỗi bài thơ mở ngỏ “một cánh cửa/
một lối thoát”, sự lựa chọn là ở độc giả - hoặc với “con mắt mở” và
“rời khỏi” hoặc cùng nhà thơ “bằng tâm thế kẻ tội đồ/ đứng bên rìa mọi
ngôn ngữ/ với đôi mắt nhắm” (bài thơ trong lòng bàn tay)…
Xét
về mặt lí luận thể loại, đây không phải là những nhận thức quá mới mẻ hay khác
biệt. Nhưng đây là những nhận thức cần thiết với cả người viết lẫn người đọc.
Trên thực tế, chúng mang ý nghĩa như sự tự đúc rút của tác giả trong quá trình
thực hành sáng tạo. Chính vì vậy, nhận thức thường được mô tả như những hình ảnh,
hình tượng vận động và phát triển trong thời gian. Không chỉ là thơ, chính nhận
thức về thơ, về sự sáng tạo cũng là một sản phẩm của thời gian. Điều này tạo
nên sự thống nhất trong mạch tư duy của tác giả: từ thế giới đến con người, đến
thơ ca, tất cả đều là sản phẩm của thời gian, bị/ được chi phối bởi thời
gian.
Như
vậy, thời gian tạo ra tôi bằng chính sự tác động không ngừng của nó trên
dòng chảy vật lí và tâm lí. Nó giới hạn tôi, làm đầy đủ tôi, làm biến dạng tôi
và làm tôi tiêu biến trong dòng chảy vô tăm tích của nó. Đó là một lực tác động
không thể cưỡng lại, mang tính hủy diệt tất yếu. Đây là một quan niệm thời gian
quen thuộc trong thơ xưa nay, thể hiện qua hình ảnh mái tóc "tiêu như thanh
ty, mộ thành tuyết" trong thơ Lý Bạch, con quạ ủ rũ trên cành khô
trong thơ Basho, cảm giác "Cái bay không đời cái trôi/ Từ tôi
phút ấy sang tôi phút này" trong thơ Xuân Diệu, hoặc "Trên dốc
thời gian, hòn đá tuột/ Lăn dài kinh động cả hư vô" của Tô Thùy Yên...
Từ góc nhìn cá nhân, khi tiếp cận chủ đề vĩnh cửu này, Linh Văn nhận ra chủ thể
sáng tạo hoàn toàn có khả năng kiến tạo nên một thời gian riêng cho tôi/ bằng
tôi. Đó là một thời gian đã được cá nhân hóa, tinh thần hóa. Và nữa – thơ
hóa. Thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan, do đó, không chỉ là
cách diễn đạt ẩn dụ, nó là một cách tư duy và cấu trúc độc đáo về hình tượng thời
gian và, tất nhiên, cả ý thức về hiện hữu tích cực cần thiết của con người
trong thời gian.
Như
đã nói từ đầu, ngay trong nhan đề tập thơ - Thời gian ăn tôi bằng mọi
giác quan - thời gian, thay vì một ý niệm trừu tượng, đã được hữu hình
hóa, vật chất hóa thành một chủ thể hành động mạnh mẽ. Con người, ngược lại, bị
đẩy vào thế bị động, trở thành đối tượng bị tác động, biến đổi. Đây không thuần
túy là một ẩn dụ. Mệnh đề này, tự nó đã hàm chứa sự gợi ý, chỉ dẫn về cách nhận
thức, tư duy cũng như cách tổ chức hình tượng của tác giả. Thời gian ăn
tôi bằng mọi giác quan được cấu trúc theo 4 (nhịp/ chiều) thời
gian: 1) nhịp đời thứ nhất; 2) thời gian ăn tôi bằng mọi
giác quan; 3) mai này khi chúng ta rời khỏi; 4) từ trước
thoạt kì thủy. Có thể nói một cách vắn lược, thời gian thứ nhất tập trung
vào tuổi ấu thơ cùng những "vọng âm" của nó; thời gian thứ hai
chủ yếu nói về quá trình "thời gian ăn tôi" cũng là quá trình
phát triển của mỗi cá nhân; thời gian thứ ba suy ngẫm về cái chết và sự "rời
khỏi"; thời gian thứ tư suy ngẫm về thơ và sáng tạo. Trong quan niệm
văn hóa phổ biến, bốn là con số hàm chứa nhiều ý nghĩa tượng trưng. “Có bốn
phương, bốn gió, bốn trụ của Hoàn Vũ, bốn kì của tuần trăng, bốn mùa, bốn
nguyên tố, bốn khí chất, bốn con sông ở Thiên Đường, bốn chữ cái trong tên Chúa
Trời (YHVH) trong tên con người đầu tiên (ADAM), bốn cánh của chữ thập, bốn tác
giả kinh Phúc Âm… Bốn còn là con số làm nổi bật vũ trụ trong tổng thể của nó”[2].
Có lẽ, đây không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà là một cách tổ chức có chủ
ý. Điều này tạo nên một cấu trúc triết lí - tượng trưng khá rõ, thể hiện trong
sự tương ứng giữa ý tưởng chủ đạo và hình thức trình bày văn bản, cách sử dụng
hình tượng, nhịp điệu, thể thơ tự do... Một điều cần lưu ý thêm. Trong phần
thứ hai, có một bài thơ cùng tên với tiểu mục, đồng thời, tên của nó cũng là
tên tập thơ - thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan. Bài thơ được
cấu tứ theo trình tự thời gian, từ tháng Bảy đến tháng Mười Hai. Mỗi khổ thơ tập
trung vào sự tác động giữa thời gian (được nhân hóa qua từng tháng) tới tôi
trong bối cảnh mỗi tháng. Phần cuối bài mở ra viễn cảnh tiếp diễn của sự vô định: Ngày
nối tiếp ngày/ trong bước chân của đá/ cơn mộng du nặng nề bất trắc. Bài
thơ sử dụng nhiều động từ, ví dụ ăn, nhìn, bày, ướp, nghe…; đồng thời
tập trung mô tả sự cảm nhận qua các giác quan: "mùi mưa ẩm"
(khứu giác), "ảo ảnh lưỡi và môi", "vị da thịt"
(xúc giác, vị giác), "nhìn tôi bằng con mắt lờ lững" (thị
giác), "nghe tôi thở" (thính giác)… Từ một ý niệm trừu tượng,
thời gian hiện diện như một/ các sinh thể đầy giác quan và cảm giác. Điều
này nhằm cụ thể hóa, vật chất hóa về sự "ăn tôi" của thời gian, bao gồm
cả sự ăn thân thể lẫn tinh thần, tư tưởng, đặc biệt ở giai đoạn vận động, phát
triển và trưởng thành của cá nhân. Có thể hình dung bài thơ như một điểm nhấn,
một nút thắt nhằm tạo nên sự gắn kết giữa nhan đề, bố cục các phần và ý tưởng,
cảm hứng chủ đạo. Nếu đọc nhan đề, ai đó băn khoăn về đặc điểm, phẩm tính cũng
như mối quan hệ đặc biệt giữa thời gian và cái tôi trữ tình được trình bày
trong một mệnh đề ngữ pháp mạch lạc (chính sự sáng rõ một cách khác thường, ít
khi gặp trong nhan đề thơ này lại là yếu tố gây cấn, gây nghĩ), thì ít nhất, ở
đây, họ cũng được giải đáp phần nào. Tuy vậy, chỉ dừng lại ở bài thơ này là
chưa đủ. Để hiểu ý tưởng “thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan”, như đã
phân tích ở trên, cần phải nhìn trên toàn bộ cấu trúc chỉnh thể, và cả ở những
khổ, đoạn, hay chi tiết, hình ảnh... tưởng chừng li tâm mà thực chất vẫn nằm
trong mạch chủ đạo.
Có
thể nói, trong thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan, cái tôi chủ thể
tự xác định mình trong tư cách một sinh thể thời gian, đồng thời, một sinh thể
sáng tạo. Thời gian - Cái tôi - Thơ giống như Chúa Ba Ngôi trong thơ Linh Văn.
Sáng tạo thơ cũng là sáng tạo con người. Hoạt động sáng tạo đó chỉ có thể hiện
hữu và hiện thực hóa trong/ theo thời gian. Hiểu theo cách đó, sáng tạo thơ hay
sáng tạo cuộc đời cũng là sáng tạo thời gian. Ý thức về bản thân vừa là một thực
thể hữu hạn, bé nhỏ đồng thời là một thực thể có khả năng thông linh, hòa nhập
làm một với linh hồn vũ trụ tạo nên tinh thần suy ngẫm bình tĩnh và sự cân bằng
nội tại trong không gian thơ này.
Thời
gian ăn tôi bằng mọi giác quan mang dáng dấp một ẩn
ngữ, nó vừa che giấu vừa tiết lộ, vừa tiết lộ vừa che giấu. Thời gian tác động
đến con người bằng mọi giác quan và ngược lại, con người phải mở rộng mọi giác
quan mới có thể nghe được tiếng nói thực sự của thời gian. Để nghe được “tiếng
trăm năm vỡ”, ấy là niềm “hạnh ngộ chính mình” của người viết. Và của
người đọc.
Vinh,
28/ 5/2025
L.H.Q
[1] Linh
Văn (2025), thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan, Nxb Đà Nẵng, trang
12.
[2] Jean
Chevalier, Alain Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới,
Nxb Đà Nẵng, Trường Viết văn Nguyễn Du, trang 101.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét