Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2025

Thơ Linh Văn

                                                      TIẾNG TRĂM NĂM VỠ 

(Về tập thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan của Linh Văn, Nxb Đà Nẵng, 2025)

 

                                                      nghe thời gian nứt ra từ kẽ đá

                                                      tiếng trăm năm vỡ dưới cội thông già

                (bài thơ về người say bóng đêm)

                                     Lê Hồ Quang






Ngay từ nhan đề tập thơ - thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan - thời gian, thay vì một ý niệm trừu tượng, đã được hữu hình hóa, vật chất hóa thành một chủ thể hành động mạnh mẽ. Con người, ngược lại, bị đẩy vào thế bị động, trở thành đối tượng bị tác động, biến đổi. Dẫu vậy, bất chấp sự tường minh trong cấu trúc ngữ pháp này, hình tượng thời gian cũng như mối quan hệ giữa thời gian và con người trong tập thơ vẫn hiện lên như một câu đố của Sphinx.

Ta hãy bắt đầu từ hình tượng thời gian. Từ góc nhìn nội cảm, thời gian được chú trọng trong tập thơ không phải là thời gian bên ngoài, tuyến tính, đồng nhất và có thể chia cắt mà chủ yếu là thời gian bên trong, là thời gian mà con người sống và trải nghiệm trong ý thức, cảm giác. Nó là một dòng chảy liên tục, không thể chia cắt, nơi quá khứ thấm nhuần vào hiện tại và định hình tương lai, hoặc, nói theo cách của Walt Whitman: "Quá khứ và hiện tại đã héo tàn - tôi đã đổ đầy và rót cạn/ Và bây giờ tôi sắp đổ đầy cái phần tôi kế tiếp của tương lai" (Bài hát chính tôi, Hoàng Hưng dịch). Dĩ nhiên, rất khó để đo lường thời gian này bằng các đơn vị vật lí bên ngoài, bởi nó hình thành từ “một nguyện ước riêng tư và thành thật/ về một khoảng trời đã mất” (vọng âm), được định vị, định tính bằng không gian tương ứng, cũng đã được cá nhân hóa. Đó là khoảng trời tuổi thơ: ấu thơ là chuỗi ngày dài ngóng đợi/ một tiếng động dội về từ vách núi bên kia (tiếng thở trong vườn); là miền đất quê hương: thị trấn nhỏ nằm ven dốc hoa vàng/ một cái cây như vị khách không mời/ trước ngôi nhà có tầng áp mái/ ô cửa sổ thơ mộng (thị trấn); hoặc một địa danh mà con người từng sống trải: “sài-gòn/ sài-gòn/ hẻm hóc chôn chúng ta vào mê cung/ rối rắm vòng vèo trí nhớ (những ngày mưa chầm chậm)… Đó là không – thời gian của yêu thương: thị trấn nhỏ/ giấu cuộc tình nho nhỏ/ một gói nho khô, một cánh pensée/ chàng thiếu niên đứng bên thành cầu nôn nao chờ đợi/ trái tim nhảy một điệu valse (thị trấn); và nỗi đau đớn, tuyệt vọng: bao điều chưa nói ứa ra như nhựa cây sau mỗi vết chém/ và anh đáp lời em bằng thứ màu đỏ kia/ từ hốc mũi trên gương mặt cứng đờ/ cuộc hội thoại của xương/ và máu (cho Anh của em (1976-2023))… Thời gian này vừa có thể đo đếm được bằng các con số ngày/ tháng/ năm, đồng thời rộng lớn hơn, bí ẩn và khó thấu suốt hơn. Đó là thời gian đã được cảm xúc hóa, tinh thần hóa: những ngày im lặng thả ngón tay trỏ của mình/ xuyên qua những tầng biển sắc nhọn/ để chạm vào thương tích của một ngày khác (thương tích); tất cả chỉ là một nhát cắt dọc chiêm bao/ đổ thời gian xuống mặt phẳng không gian/ còn cách nào khác ngoài việc khẽ chạm từng hình bóng/ để cảm nhận sức nặng kí ức/ bám trên đầu mỗi ngón tay như bụi (từ một tấm ảnh gia đình)… 

Từ góc nhìn siêu nghiệm, tác giả phát hiện ra những chiều thời gian khác, vượt ngoài thời gian cá nhân, cho phép anh ta “nhìn thấy”, “nghe thấy” chính mình trong những đặc điểm nhân dạng và bản thể khác. Danh tính của tôi trong hiện tại, thực chất chỉ là “bụi tro” trong thăm thẳm: anh ngỡ mình với tay ra là có thể chạm tới/ anh của bờ bên kia, nhưng không/ thời gian đã kéo giãn mọi thứ, gồm cả sự thật về chính nó/ thành những ốc đảo riêng biệt (giữa tháng Hai và tháng Tư); và tay chân mắt miệng này là của ai đó khác/ và nhịp thở ngắn dài này/ là ảo tưởng về trần thế vốn đã bị cầm tù từ lúc sinh ra/ và cái bóng dưới chân tôi bắt đầu cuộc lữ triêng của nó/ về một nơi ta chỉ có thể nghe mà không nói, thấy mà không nhìn (rời bỏ). Thời gian ở đây không bị giới hạn bởi cuộc đời cá nhân hữu tử và hữu hạn, với những kinh nghiệm sinh tồn, mà được nhân lên, bởi “lời thầm” của những cái tôi khác, mượn cái tôi này để cất lời, như tác giả đã viết: “tất cả những bài thơ này được viết bởi tôi (…) nhưng cũng có thể được viết bởi một hay nhiều ai đó khác, những người, những vật, những chữ đã không còn cơ hội nào để cất lên tiếng nói từ hiện diện của chính họ”[1]. Việc chiêm ngắm cá nhân trong chiều kích thời gian vũ trụ sẽ đẩy tới những suy ngẫm, nhận thức mang tính bao quát về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, sự sống và cái chết, cá nhân và lịch sử, mất và còn, hữu hạn và vô hạn... Cái chết không chỉ được nói đến như một danh từ, nó được mô tả như một trạng thái chuyển hóa từ cõi sống này sang cõi sống khác, từ vũ trụ này sang vũ trụ khác và từ tôi sang phi-tôi: mọi ngả đường cùng dẫn về một chốn ở trong lòng thị trấn/ nơi tôi đứng dưới gốc cây khô/ những năm tháng xung quanh vừa rơi vừa bốc cháy (lời tro). Tác giả nói nhiều đến những cảm giác siêu nghiệm, vượt ra ngoài kinh nghiệm sống thông thường, không thể cảm nhận đơn thuần bằng các giác quan vật chất, cảm giác về sự vắng mặt và những vọng âmảo giác hay những lời trolời thầm… Trong đại lượng thời gian này, cái tôi hiện diện đồng thời cũng là cái tôi “khiếm diện”, vừa là cái tôi tiểu sử, có những trải nghiệm cụ thể, đầy cảm xúc, nhưng đồng thời cũng là cái tôi đã sống trải “những nơi tôi chưa từng đến”, “những năm / không có trên một cuốn lịch nào”, và cả “nỗi chết êm như nắng”:

đôi khi

tôi ước ai đó lẻn vào giấc mơ tôi hằng đêm

để lấy đi một màu hoặc một mùi

 

ai đó mượn kí ức tôi tạo nên

bản mô tả của các giác quan

về những nơi tôi chưa từng đến


ai đó mượn thời gian của tôi để bước lên
chuyến xe mù căm thế kỷ
cứ thế trôi xa khỏi quỹ đạo mùa màng


mượn tên tôi gọi những thứ không tên
trở về bằng vụn xương khô từ dưới vực gió trắng


và mượn hồn tôi viết câu thơ thứ nhất

với nhịp đập liên hồi bên trong những tử cung

                             (nhịp đời thứ nhất)

Sự “vọng âm” tạo nên tính chất mơ hồ trong nhân diện cái tôi, sắc màu hư ảo ngưng đọng trong khung cảnh không – thời gian và âm thanh, ánh sáng, mùi vị vĩnh viễn mà nó mang theo:   

  nắng cắt đôi mọi thứ
giữa cái ly ánh sáng vô tận
giọng con chim lạ gọi tôi
về dưới bóng râm tháng Bảy


em cứ đến ngồi cạnh bên thế thôi
bởi tôi là khoảng trống
hãy đậu xuống bản hòa thanh điền dã
cái bóng nhỏ như nốt lặng của em

                            (tiếng thở trong vườn)

Cảm giác "vọng âm vĩnh cửu" trong những câu thơ vừa dẫn ở trên gợi nhớ đến cái nhìn về thế giới trong chiều sâu trực giác và tâm linh của William Blake: Thấy Thế Giới trong một Hạt Cát nhỏ/ Và Thiên Đường trong mỗi Đoá Hoa Tươi/ Giữ Vô Hạn trong bàn tay hé mở/ Và Thiên Thu trong khoảnh khắc cuộc đời (Sấm ngôn của tuổi thơ ngây, Pháp Hoan dịch). Đấy là những cảm giác hiện hữu vừa sống động, cụ thể vừa xiết bao trừu tượng.

Như một hệ quả của cái nhìn thế giới này, trong một số bài thơ khác của Linh Văn, ta gặp một trạng thái tâm lí khá đặc biệt – trạng thái đã thấy (déjà vu). Đấy là cảm giác quen thuộc kì lạ dù đấy là sự việc mới xảy ra hoặc mới chứng kiến. Có thể hình dung trạng thái này như một khoảnh khắc của sự đồng bộ vũ trụ, khi các sự kiện hiện tại trùng khớp với một sự kiện đã tồn tại trong tiềm thức hoặc trong một chiều không – thời gian khác. Trạng thái này gợi lên những câu hỏi về thực tại, số phận, và những điều vượt quá sự hiểu biết thông thường. Có lẽ đây cũng là một cách để cái tôi cá nhân khám phá đời sống, thời gian, nỗi đau và những ký ức bị chôn vùi:  

hãy để tôi ở nơi không còn ai nhìn thấy
dọc đường đi của chú ốc sên
bò rất chậm như thể đang lùi lại


nơi mỗi ngày mặt trời mọc từ đằng Tây
rồi lặn đằng Đông
lá ăn mảnh vườn đêm bằng giọng nói côn trùng
nơi cây cối đâm chồi xuống các tầng vô định của quá khứ
và bám rễ vào một tương lai đã biết trước từ đầu

                            (lời tro)

Bản thể cá nhân, theo góc nhìn này, là cái liên tục được hình thành, biến đổi cùng với mỗi thời khắc trôi chảy của thời gian. Như vậy, cùng với “thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan”, thời gian hủy hoại tôi, tiêu biến tôi, đồng thời cũng tái tạo tôi, tái sinh tôi. Thay vì là phương tiện, công cụ, thời gian trở thành Đấng Sáng Tạo, Đấng Hủy Diệt và Tái Sinh. Nhà thơ buông tay vào lò luyện thời gian, nhận ra mình trong tư cách một sản phẩm thời gian và anh ta được tưởng thưởng: từ góc nhìn sâu bên trong, anh ta nhận ra bí mật của cuộc sinh hóa bất tận và sự hiện hữu của những chiều thời gian song song, mà trong mắt thường vốn vô hình.

Bài thơ sau là một ví dụ.

về một mảnh kí ức của chàng Narcissus

nhiều năm sau, hẳn tôi vẫn còn nhớ đến

cảm giác ấy: khoảnh khắc phải bước qua một thành phố vắng

với bàn chân như giấy tan trong lửa


những cột đèn tắt ngúm, huyệt sông sâu chôn đôi mắt đỏ rực
của một vệt sao xa, cái bóng của tôi
dần bò ra khỏi những ngón chân
cho đến khi một cái cây màu đen đột ngột mọc lên phía bờ bên kia
như thể tôi đã đợi tôi ở đó rất lâu
từ một thuở kiếp nào


con đường là giấc mơ của chính nó
về một mê cung không đích đến, tiếng chuông nhà thờ
là lời nguyện cuối cùng về một xứ sở vô thanh
tôi là tôi, ngày mà ánh sáng của sự cứu rỗi
và em và cả chính tôi
rời bỏ tôi


như cách Narcissus chiêm ngắm chính mình
dưới làn nước sông Styx, tôi đặt giữa bài thơ này và em
một tấm gương, mãi mãi thế giới chỉ là phản chiếu
của chính nó nếu em nhìn sâu vào bên trong, hoặc chẳng là gì cả
nếu em đập vỡ nó

Bài thơ nói về một khoảnh khắc đặc biệt. Khoảnh khắc hạt cơ bản, dồn nén trong nó cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Đó cũng là khoảnh khắc con người bước qua lằn ranh giữa không gian hữu thức và vô thức. Thay vì một ý niệm, hành trình vào cõi vô thức hiển hiện như một hành trình đầy cảm giác: khoảnh khắc phải bước qua một thành phố vắng/ với bàn chân như giấy tan trong lửa. Vô thức hiện lên bằng nhiều biểu tượng bí ẩn (cái bóng, mê cung, giấc mơ, sông Styx, tấm gương…) hàm chứa trạng thái lo âu, bất an: huyệt sông sâu chôn đôi mắt đỏ rực, cái bóng của tôi dần bò ra khỏi những ngón chân; một cái cây màu đen đột ngột mọc lên phía bờ bên kia… Thành phố lạ với những mê cung lạnh chính là không gian vô thức với những chiều kích tinh thần rộng lớn, bí ẩn. Cái bóng là một phần nhân cách vô thức, một thuộc tính, phẩm chất ít được biết đến của bản ngã. Trong “thành phố vắng” của vô thức, tôi đã gặp ẩn ngã của mình - “cái bóng của tôi”, như thể “tôi đã đợi tôi ở đó rất lâu/ từ một thuở kiếp nào”. Là tôi - là hình và bóng - “tôi là tôi, ngày mà ánh sáng của sự cứu rỗi/ cả em và cả chính tôi/ rời bỏ tôi”. Vốn là hình tượng ái kỉ quen thuộc trong thần thoại Hy Lạp, nhưng ở đây, Narcissus có thể được hiểu như một cá nhân khao khát tự nhận thức, trên lằn ranh hữu tử và vô hạn và là sự phóng chiếu bản ngã của tôi trong thế giới vô thức. Hành trình tìm kiếm, nhận thức bản ngã ấy được hình dung như một “con đường là giấc mơ”, một “mê cung không đích đến” hay “một tấm gương” soi chiếu. Hành động “tôi đặt giữa bài thơ này và em/ một tấm gương” là để đi đến nhận thức “mãi mãi thế giới chỉ là phản chiếu/ của chính nó nếu em nhìn sâu vào bên trong, hoặc chẳng là gì cả/ nếu em đập vỡ nó”. Tấm gương là biểu tượng của năng lực suy ngẫm, nhu cầu tìm kiếm sự thật và sự hướng nội. “Nhìn sâu” vào tấm gương để tự nhận thức hay “đập vỡ” nó để đối diện với thực tại nghiệt ngã, trần trụi là những lựa chọn hiện sinh. Hành động nào cũng đòi hỏi sự suy ngẫm, ý thức và trách nhiệm cá nhân. Mỗi lựa chọn hành động gắn liền với những khả năng và khả thể tồn tại vô cùng khác biệt của cá nhân trong những chiều thời gian song song. Trong khoảnh khắc mang tính khải thị, cái tôi trữ tình bỗng thấu suốt về mối quan hệ giữa bản thân và thời gian: anh ta phụ thuộc vào nó, bản thể anh ta được xác lập và kiến tạo nên bởi nó, anh ta là sản phẩm được tạo nên từ nó, nhưng đồng thời, cũng chính trong “khoảnh khắc” và “cảm giác ấy”, con người sống trải thời gian, nối kết trạng thái hiện tại với quá khứ và (có thể) tương lai, và bằng cách đó, đã tạo sinh một thời gian chủ thể, duy nhất, riêng cho/ bởi anh ta. Bằng cách đó, thời gian bên ngoài và thời gian bên trong, thời gian khách thể và thời gian chủ thể, thời gian vật lí và thời gian thi ca đã phát lộ mối quan hệ gắn kết đặc biệt.

Suy tư về cá nhân trong thời gian, như một tất yếu, dẫn tác giả đến với suy tư về thơ, về nghệ thuật, bởi xét đến cùng, đấy là một cách để định hình bản thể của người sáng tạo: tôi đếm thời gian của tôi bằng thơ/ quá khứ của tôi: những bài thơ đã được viết ra/ tương lai: những bài thơ chưa viết/ còn hiện tại rỗng không như chính tôi lúc này/ khi đang đứng trước một bài thơ/ mà chưa tìm ra lối (ở đâu?)… Thơ là nghệ thuật của thời gian. Nhưng cũng như con người, thơ bị thời gian điều kiện hóa: thời gian chôn thơ/ thơ chôn thơ/ thời gian của bài thơ này chôn bài thơ khác (ở đâu?); viết là học cách im lặng như một cái bóng/ hoặc một giọng nói đã tắt/ kiên nhẫn xếp hàng chữ cuối cùng/ và chờ đợi (viết); một bài thơ chào đời cũng là một bài thơ hấp hối/ chữ cấp cho nó một tờ giấy khai sinh/ lại vừa viết một bài ai điếu để khai tử nó (sẹo ánh sáng). Sáng tạo thơ được hình dung như một hành động thiêng liêng, đầy bí ẩn, như “Trong Ơn Gọi”, xảy ra “từ trước thoạt kì thủy”. Viết là hành động được xác định bởi một con người/ cái tôi cụ thể, đồng thời, là một hành động sáng tạo đầy bí nhiệm, có thể được thực hiện “bởi một hay nhiều ai đó khác”. Khởi thủy thơ được hình dung như một giọng nói bí ẩn: một giọng nói/ bằng những lời chưa được sinh ra/ đã lưu vong bên ngoài mọi ngôn ngữ/ cõi mà ánh sáng là một thứ mực phai trên trang của đêm/ với bài thơ không bao giờ được viết (prelude). Từ trải nghiệm thực tế sáng tạo, nhà thơ nhận ra yếu tố hiện hữu dày đặc trong thơ, lạ lùng thay, chính là những “khoảng trống”, đấy là một nghịch lí có thực: chúng cần vắng mặt/ để làm nên hiện diện/ cho chính bài thơ mà bạn đang đọc (khoảng trống); và thơ đích thực vượt ra ngoài mọi tham vọng định nghĩa và mô hình hóa: bài thơ không ở đây cũng không ở đó/ nó là cái cây không bao giờ được gọi tên/ mọc và chết bên ngoài mọi khu rừng (bài thơ trong lòng bàn tay)…  Bởi vậy, mỗi bài thơ mở ngỏ “một cánh cửa/ một lối thoát”, sự lựa chọn là ở độc giả - hoặc với “con mắt mở” và “rời khỏi” hoặc cùng nhà thơ “bằng tâm thế kẻ tội đồ/ đứng bên rìa mọi ngôn ngữ/ với đôi mắt nhắm” (bài thơ trong lòng bàn tay)…

Xét về mặt lí luận thể loại, đây không phải là những nhận thức quá mới mẻ hay khác biệt. Nhưng đây là những nhận thức cần thiết với cả người viết lẫn người đọc. Trên thực tế, chúng mang ý nghĩa như sự tự đúc rút của tác giả trong quá trình thực hành sáng tạo. Chính vì vậy, nhận thức thường được mô tả như những hình ảnh, hình tượng vận động và phát triển trong thời gian. Không chỉ là thơ, chính nhận thức về thơ, về sự sáng tạo cũng là một sản phẩm của thời gian. Điều này tạo nên sự thống nhất trong mạch tư duy của tác giả: từ thế giới đến con người, đến thơ ca, tất cả đều là sản phẩm của thời gian, bị/ được chi phối bởi thời gian.  

 Như vậy, thời gian tạo ra tôi bằng chính sự tác động không ngừng của nó trên dòng chảy vật lí và tâm lí. Nó giới hạn tôi, làm đầy đủ tôi, làm biến dạng tôi và làm tôi tiêu biến trong dòng chảy vô tăm tích của nó. Đó là một lực tác động không thể cưỡng lại, mang tính hủy diệt tất yếu. Đây là một quan niệm thời gian quen thuộc trong thơ xưa nay, thể hiện qua hình ảnh mái tóc "tiêu như thanh ty, mộ thành tuyết" trong thơ Lý Bạch, con quạ ủ rũ trên cành khô trong thơ Basho,  cảm giác "Cái bay không đời cái trôi/ Từ tôi phút ấy sang tôi phút này" trong thơ Xuân Diệu, hoặc "Trên dốc thời gian, hòn đá tuột/ Lăn dài kinh động cả hư vô" của Tô Thùy Yên... Từ góc nhìn cá nhân, khi tiếp cận chủ đề vĩnh cửu này, Linh Văn nhận ra chủ thể sáng tạo hoàn toàn có khả năng kiến tạo nên một thời gian riêng cho tôi/ bằng tôi. Đó là một thời gian đã được cá nhân hóa, tinh thần hóa. Và nữa – thơ hóaThời gian ăn tôi bằng mọi giác quan, do đó, không chỉ là cách diễn đạt ẩn dụ, nó là một cách tư duy và cấu trúc độc đáo về hình tượng thời gian và, tất nhiên, cả ý thức về hiện hữu tích cực cần thiết của con người trong thời gian. 

Như đã nói từ đầu, ngay trong nhan đề tập thơ - Thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan - thời gian, thay vì một ý niệm trừu tượng, đã được hữu hình hóa, vật chất hóa thành một chủ thể hành động mạnh mẽ. Con người, ngược lại, bị đẩy vào thế bị động, trở thành đối tượng bị tác động, biến đổi. Đây không thuần túy là một ẩn dụ. Mệnh đề này, tự nó đã hàm chứa sự gợi ý, chỉ dẫn về cách nhận thức, tư duy cũng như cách tổ chức hình tượng của tác giả. Thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan được cấu trúc theo 4 (nhịp/ chiều) thời gian: 1) nhịp đời thứ nhất; 2) thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan; 3) mai này khi chúng ta rời khỏi; 4) từ trước thoạt kì thủy. Có thể nói một cách vắn lược, thời gian thứ nhất tập trung vào tuổi ấu thơ cùng những "vọng âm" của nó; thời gian thứ hai chủ yếu nói về quá trình "thời gian ăn tôi" cũng là quá trình phát triển của mỗi cá nhân; thời gian thứ ba suy ngẫm về cái chết và sự "rời khỏi"; thời gian thứ tư suy ngẫm về thơ và sáng tạo. Trong quan niệm văn hóa phổ biến, bốn là con số hàm chứa nhiều ý nghĩa tượng trưng. “Có bốn phương, bốn gió, bốn trụ của Hoàn Vũ, bốn kì của tuần trăng, bốn mùa, bốn nguyên tố, bốn khí chất, bốn con sông ở Thiên Đường, bốn chữ cái trong tên Chúa Trời (YHVH) trong tên con người đầu tiên (ADAM), bốn cánh của chữ thập, bốn tác giả kinh Phúc Âm… Bốn còn là con số làm nổi bật vũ trụ trong tổng thể của nó”[2]. Có lẽ, đây không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà là một cách tổ chức có chủ ý. Điều này tạo nên một cấu trúc triết lí - tượng trưng khá rõ, thể hiện trong sự tương ứng giữa ý tưởng chủ đạo và hình thức trình bày văn bản, cách sử dụng hình tượng, nhịp điệu, thể thơ tự do... Một điều cần lưu ý thêm. Trong phần thứ hai, có một bài thơ cùng tên với tiểu mục, đồng thời, tên của nó cũng là tên tập thơ - thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan. Bài thơ được cấu tứ theo trình tự thời gian, từ tháng Bảy đến tháng Mười Hai. Mỗi khổ thơ tập trung vào sự tác động giữa thời gian (được nhân hóa qua từng tháng) tới tôi trong bối cảnh mỗi tháng. Phần cuối bài mở ra viễn cảnh tiếp diễn của sự vô định: Ngày nối tiếp ngày/ trong bước chân của đá/ cơn mộng du nặng nề bất trắc. Bài thơ sử dụng nhiều động từ, ví dụ ăn, nhìn, bày, ướp, nghe…; đồng thời tập trung mô tả sự cảm nhận qua các giác quan: "mùi mưa ẩm" (khứu giác), "ảo ảnh lưỡi và môi", "vị da thịt"  (xúc giác, vị giác), "nhìn tôi bằng con mắt lờ lững" (thị giác), "nghe tôi thở" (thính giác)… Từ một ý niệm trừu tượng, thời gian hiện diện như một/ các sinh thể đầy giác quan và cảm giác. Điều này nhằm cụ thể hóa, vật chất hóa về sự "ăn tôi" của thời gian, bao gồm cả sự ăn thân thể lẫn tinh thần, tư tưởng, đặc biệt ở giai đoạn vận động, phát triển và trưởng thành của cá nhân. Có thể hình dung bài thơ như một điểm nhấn, một nút thắt nhằm tạo nên sự gắn kết giữa nhan đề, bố cục các phần và ý tưởng, cảm hứng chủ đạo. Nếu đọc nhan đề, ai đó băn khoăn về đặc điểm, phẩm tính cũng như mối quan hệ đặc biệt giữa thời gian và cái tôi trữ tình được trình bày trong một mệnh đề ngữ pháp mạch lạc (chính sự sáng rõ một cách khác thường, ít khi gặp trong nhan đề thơ này lại là yếu tố gây cấn, gây nghĩ), thì ít nhất, ở đây, họ cũng được giải đáp phần nào. Tuy vậy, chỉ dừng lại ở bài thơ này là chưa đủ. Để hiểu ý tưởng “thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan”, như đã phân tích ở trên, cần phải nhìn trên toàn bộ cấu trúc chỉnh thể, và cả ở những khổ, đoạn, hay chi tiết, hình ảnh... tưởng chừng li tâm mà thực chất vẫn nằm trong mạch chủ đạo.

Có thể nói, trong thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan, cái tôi chủ thể tự xác định mình trong tư cách một sinh thể thời gian, đồng thời, một sinh thể sáng tạo. Thời gian - Cái tôi - Thơ giống như Chúa Ba Ngôi trong thơ Linh Văn. Sáng tạo thơ cũng là sáng tạo con người. Hoạt động sáng tạo đó chỉ có thể hiện hữu và hiện thực hóa trong/ theo thời gian. Hiểu theo cách đó, sáng tạo thơ hay sáng tạo cuộc đời cũng là sáng tạo thời gian. Ý thức về bản thân vừa là một thực thể hữu hạn, bé nhỏ đồng thời là một thực thể có khả năng thông linh, hòa nhập làm một với linh hồn vũ trụ tạo nên tinh thần suy ngẫm bình tĩnh và sự cân bằng nội tại trong không gian thơ này. 

Thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan mang dáng dấp một ẩn ngữ, nó vừa che giấu vừa tiết lộ, vừa tiết lộ vừa che giấu. Thời gian tác động đến con người bằng mọi giác quan và ngược lại, con người phải mở rộng mọi giác quan mới có thể nghe được tiếng nói thực sự của thời gian. Để nghe được “tiếng trăm năm vỡ”, ấy là niềm “hạnh ngộ chính mình” của người viết. Và của người đọc.

                                                                    Vinh, 28/ 5/2025

                                                                              L.H.Q

 

 

 






[1] Linh Văn (2025), thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan, Nxb Đà Nẵng, trang 12.

[2] Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng, Trường Viết văn Nguyễn Du, trang 101.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét