NHỊP THỜI GIAN CỦA LINH VĂN
(Về tập thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan [1] của Linh Văn, Nxb Đà Nẵng, 2025)
riêng tôi, tập thơ này để tụng ca thời gian. thứ thời gian của riêng tôi, làm nên chính tôi bây giờ và mai sau - Linh Văn
Lê Hồ Quang
Chọn
thời gian làm đề tài, và hơn thế, biến nó thành chủ đề xuyên suốt tập thơ, hẳn
Linh Văn biết mình đang đối mặt với một hiểm địa - sự lặp lại.
Phải,
còn gì quen thuộc hơn hình ảnh mái tóc "tiêu như thanh ty, mộ thành tuyết" trong
thơ Lý Bạch, con quạ trên cành khô trong thơ Basho, hay những con sóng thời
gian xô nhau tìm cái chết trong thơ Shakespeare? Còn gì quen thuộc hơn cảm giác
"Cái bay không đời cái trôi/ Từ tôi phút ấy sang tôi phút này"
trong thơ Xuân Diệu? Và nữa, ý tưởng con người kiến tạo mình trong/ bằng thời
gian của Walt Whitman: "Quá khứ và hiện tại đã héo tàn - tôi đã đổ đầy và rót
cạn/ Và bây giờ tôi sắp đổ đầy cái phần tôi kế tiếp của tương lai" (Bài ca chính tôi, Hoàng Hưng dịch)… Thời
gian, với quy luật chảy trôi của nó, với sức mạnh hủy hoại và tái sinh của nó, từ
lâu, đã là một “chủ đề vĩnh cửu” của văn học, nghệ thuật, triết học.
Nhưng
có vẻ tác giả thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan không nao núng. Bởi lẽ,
điều anh ta thực sự quan tâm là thời gian nội tâm, tâm lí (Henri Bergson gọi là
thời gian tồn tục) được kiến tạo bởi kinh nghiệm, thân thể, hồi ức, trực giác… Đấy là thời gian của ý thức, của trải nghiệm sống, đối lập với thời
gian vật lí, luôn trôi chảy, không thể chia cắt, nơi quá khứ, hiện tại, tương lai
cũng như thực tại và ước mơ, hoài niệm luôn thấm nhuần, hòa quyện. Dòng chảy
chủ quan đó biểu thị đời sống tự ngã sâu thẳm, mang tính bản chất, bên trong cá
nhân.
thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan, do vậy, không chỉ là một cách diễn đạt có tính ẩn dụ. Nó thể hiện cách tư duy, đồng thời, cách cấu trúc ý niệm thời gian bằng/ qua ngôn ngữ thơ của tác giả. Hình thành từ “một nguyện ước riêng tư và thành thật/ về một khoảng trời đã mất” (vọng âm), thời gian này gắn liền với kinh nghiệm bên trong, với dòng ý thức phi không gian, với các trạng thái nội tâm sâu kín. Đó là thời gian đã được nội cảm hóa: tất cả chỉ là một nhát cắt dọc chiêm bao/ đổ thời gian xuống mặt phẳng không gian/ còn cách nào khác ngoài việc khẽ chạm từng hình bóng/ để cảm nhận sức nặng kí ức/ bám trên đầu mỗi ngón tay như bụi (từ một tấm ảnh gia đình)… Trong dòng thời gian này, con người hiện diện đồng thời cũng là con người “khiếm diện”, vừa là cái tôi tiểu sử, có những trải nghiệm cụ thể, đầy cảm xúc về tuổi thơ, tình yêu, mất mát, nhưng đồng thời cũng là cái tôi đã sống trải “những nơi tôi chưa từng đến”, “những năm / không có trên một cuốn lịch nào”, và cả “nỗi chết êm như nắng”. Sự “vọng âm” của những “lời tro” tạo nên tính chất phi danh tính của cái tôi, sắc màu mơ hồ hư ảo ngưng đọng trong những cảnh sắc không - thời gian được mô tả và âm thanh, ánh sáng, mùi vị của vĩnh viễn mà chúng mang theo.
Tôi
muốn dừng lại để đọc sâu hơn khu vườn tưởng tượng – tên bài
thơ mà tôi đặc biệt thích trong tập này.
tiếng
thở trong vườn
đã muộn rồi hoa lá
trong khu vườn tưởng tượng của tôi
bướm bay như cái đẹp có thật
chẳng dành riêng cho một ai
nắng cắt đôi mọi thứ
giữa cái ly ánh sáng vô tận
giọng con chim lạ gọi tôi
về dưới bóng râm tháng Bảy
em cứ đến ngồi cạnh bên thế thôi
bởi tôi là khoảng trống
hãy đậu xuống bản hòa thanh điền dã
cái bóng nhỏ như nốt lặng của em
bánh xe bò quay chậm hơn chậm hơn
chậm hơn bất cứ chiếc đồng hồ treo tường nào
âm nhạc phát minh ra thời gian
và
lá hoa tán thưởng
có thể rồi tôi sẽ quên tôi
như quên câu mở đầu bài hát
nhưng vẫn nhớ chỗ chúng ta chôn kho báu
dưới
những tầng cỏ mục
ấu
thơ là chuỗi ngày dài ngóng đợi
một
tiếng động dội về từ vách núi bên kia
những
chiều mưa ở đây làm tôi nhớ rẫy mưa
nhuộm
thế gian ghi xám
mưa
dạy tôi nỗi buồn
và
cách im nghe những ngày dài tầm tã
chỉ
để mưa cất tiếng
mỗi
khi lá thở trong vườn
Thời
gian được không gian hóa bằng “khu vườn tưởng tượng của tôi”, tức không
gian nội tâm, tinh thần. Không - thời gian ấy có nhịp điệu, ánh sáng, âm nhạc,
không khí và cảm giác mơ hồ, siêu nghiệm. Trong hình ảnh, sắc màu: bướm bay
như cái đẹp có thật/ chẳng dành riêng cho một ai; nắng cắt đôi mọi thứ/ giữa
cái ly ánh sáng vô tận; trong âm thanh: giọng con chim lạ gọi tôi/ về dưới
bóng râm tháng Bảy; trong nhịp điệu chuyển động: bánh xe bò quay chậm hơn chậm hơn/ chậm hơn
bất cứ chiếc đồng hồ treo tường nào… Linh hồn của khu vườn ấy chính là khoảng
trống. Nó tự làm đầy bằng ánh sáng, sự chậm rãi, bằng kí ức ấu thơ “chỗ
chúng ta chôn kho báu” và “một tiếng động dội về từ vách núi bên kia”. Thời gian ấy gắn liền với dòng chảy khó nắm bắt của cảm giác, liên tưởng, tưởng tượng, hồi ức,
hoài niệm. Giữa những “khoảng trống” và nhịp điệu chậm rãi của thời gian
ngoài thời gian đang “quay chậm hơn chậm hơn”, cái tôi cá nhân tự cắt bỏ
mọi cạnh sắc của lí trí, để hòa vào vùng bát ngát mênh mông của “ly ánh sáng
vô tận”.
Thật lạ, tiếng
thở trong vườn cứ khiến tôi nghĩ đến Ngậm
ngùi của Huy Cận, dù chúng khác nhau về thể thơ cũng như cảm hứng
chủ đạo. Một bên nghiêng về giãi bày những xúc cảm sầu mộng của cái tôi lãng mạn,
một bên nghiêng về những suy nghiệm nội tâm của cái tôi hiện sinh. Điểm giống,
có lẽ là cái không khí, sắc thái và dĩ nhiên, hình tượng khu vườn nội
tâm.
Đọc
thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan, tôi thường thấy tác giả nói về một trạng
thái tâm lí khá đặc biệt, tạm gọi là trạng thái đã thấy (déjà
vu). Đấy là cảm giác quen thuộc kì lạ dù đấy là sự việc mới xảy ra hoặc mới chứng
kiến. Có thể hình dung trạng thái này như một khoảnh khắc của sự đồng bộ vũ trụ,
khi các sự kiện hiện tại trùng khớp với một sự kiện đã tồn tại trong tiềm thức
hoặc trong một chiều không – thời gian khác. Trạng thái này gợi lên những câu hỏi
về thực tại, số phận, và những điều vượt quá sự hiểu biết thông thường. Có lẽ
đây cũng là một cách để cái tôi cá nhân khám phá đời sống, thời gian, nỗi đau
và những ký ức bị chôn vùi:
hãy
để tôi ở nơi không còn ai nhìn thấy
dọc đường đi của chú ốc sên
bò rất chậm như thể đang lùi lại
nơi mỗi ngày mặt trời mọc từ đằng Tây
rồi lặn đằng Đông
lá ăn mảnh vườn đêm bằng giọng nói côn trùng
nơi cây cối đâm chồi xuống các tầng vô định của quá khứ
và bám rễ vào một tương lai đã biết trước từ đầu
(lời
tro)
Như đã nói ở trên, thời gian khách quan tác
động mạnh mẽ tới con người nhưng ngược lại, con người, bằng ý thức và trải nghiệm
cá nhân, cũng có khả năng tác động ngược tới thời gian, và hơn thế, có thể "vẽ nên" nhịp thời gian chủ quan, của riêng mình. Bởi vậy, nói “thời gian ăn
tôi”, nhưng thực chất, chính là tôi đã “ăn thời gian” bằng/ qua hành
động sống, hành động lựa chọn hiện hữu giữa cuộc đời này, để tôi trở thành cái tôi là.
Hãy
thử đọc bài thơ này.
về
một mảnh kí ức của chàng Narcissus
nhiều
năm sau, hẳn tôi vẫn còn nhớ đến
cảm
giác ấy: khoảnh khắc phải bước qua một thành phố vắng
với
bàn chân như giấy tan trong lửa
những cột đèn tắt ngúm, huyệt sông sâu chôn đôi mắt đỏ rực
của một vệt sao xa, cái bóng của tôi
dần bò ra khỏi những ngón chân
cho đến khi một cái cây màu đen đột ngột mọc lên phía bờ bên kia
như thể tôi đã đợi tôi ở đó rất lâu
từ một thuở kiếp nào
con đường là giấc mơ của chính nó
về một mê cung không đích đến, tiếng chuông nhà thờ
là lời nguyện cuối cùng về một xứ sở vô thanh
tôi là tôi, ngày mà ánh sáng của sự cứu rỗi
và em và cả chính tôi
rời bỏ tôi
như cách Narcissus chiêm ngắm chính mình
dưới làn nước sông Styx, tôi đặt giữa bài thơ này và em
một tấm gương, mãi mãi thế giới chỉ là phản chiếu
của chính nó nếu em nhìn sâu vào bên trong, hoặc chẳng là gì cả
nếu em đập vỡ nó
Bài
thơ nói về một khoảnh khắc đặc biệt. Một khoảnh khắc hạt cơ bản, dồn nén trong
nó cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Đó cũng là khoảnh khắc con người bước qua
lằn ranh giữa không gian hữu thức và vô thức. Thay vì một ý niệm, hành trình
vào cõi vô thức hiển hiện như một hành trình đầy cảm giác: khoảnh khắc
phải bước qua một thành phố vắng/ với bàn chân như giấy tan trong lửa. Vô
thức hiện lên bằng nhiều biểu tượng bí ẩn (cái bóng, mê cung, giấc mơ, sông
Styx, tấm gương…) hàm chứa trạng thái lo âu, bất an: huyệt sông sâu
chôn đôi mắt đỏ rực, cái bóng của tôi dần bò ra khỏi những ngón chân; một cái
cây màu đen đột ngột mọc lên phía bờ bên kia… Thành phố lạ với những
mê cung lạnh chính là không gian vô thức với những chiều kích tinh thần rộng lớn,
bí ẩn. Trong “thành phố vắng” của vô thức, tôi đã gặp “cái bóng của
tôi” - phần nhân cách vô thức, dồn nén -
như thể “tôi đã đợi tôi ở đó rất lâu/ từ một thuở kiếp nào”. Vốn
là hình tượng ái kỉ quen thuộc trong thần thoại Hy Lạp, nhưng ở đây, Narcissus
có thể được hiểu như một cá nhân khao khát tự nhận thức, trên lằn ranh hữu tử
và vô hạn và là sự phóng chiếu bản ngã của tôi trong thế giới vô thức. Hành
trình tìm kiếm, nhận thức bản ngã ấy được hình dung như một “con đường là giấc
mơ”, một “mê cung không đích đến” hay “một tấm gương”
soi chiếu. Hành động “tôi đặt giữa bài thơ này và em/ một tấm gương” là
để đi đến nhận thức “mãi mãi thế giới chỉ là phản chiếu/ của chính nó nếu em
nhìn sâu vào bên trong, hoặc chẳng là gì cả/ nếu em đập vỡ nó”. Tấm
gương là biểu tượng của năng lực suy ngẫm, nhu cầu tìm kiếm sự thật và sự hướng
nội. “Nhìn sâu” vào tấm gương để tự nhận thức hay “đập vỡ” nó để
đối diện với thực tại nghiệt ngã, trần trụi là những lựa chọn hiện sinh. Hành động
nào cũng đòi hỏi sự suy ngẫm, ý thức và trách nhiệm cá nhân. Mỗi lựa chọn hành
động gắn liền với những khả năng và khả thể tồn tại vô cùng khác biệt của cá nhân
trong những chiều thời gian song song. Trong khoảnh khắc mang tính khải thị,
cái tôi trữ tình bỗng thấu suốt về mối quan hệ giữa bản thân và thời gian: anh
ta phụ thuộc vào nó, bản thể anh ta được xác lập và kiến tạo nên bởi nó, anh ta
là sản phẩm được tạo nên từ nó, nhưng đồng thời, cũng chính trong “khoảnh khắc”
và “cảm giác ấy”, con người sống trải thời gian, nối kết trạng thái hiện
tại với quá khứ và (có thể) tương lai, và bằng cách đó, đã tạo sinh một thời
gian chủ thể, duy nhất, riêng cho/ bởi anh ta. Đương nhiên, hiểu theo cách đó,
sáng tạo thời gian cũng chính là cách để cá nhân sáng tạo cuộc đời, sáng tạo
nghệ thuật.
Thơ
là nghệ thuật của thời gian. Nhưng cũng như con người, thơ bị thời gian điều kiện
hóa: thời gian chôn thơ/ thơ chôn thơ/ thời gian của bài thơ này chôn
bài thơ khác (ở đâu?); viết là học cách im lặng như một
cái bóng/ hoặc một giọng nói đã tắt/ kiên nhẫn xếp hàng chữ cuối cùng/ và chờ đợi (viết); một
bài thơ chào đời cũng là một bài thơ hấp hối/ chữ cấp cho nó một tờ giấy khai
sinh/ lại vừa viết một bài ai điếu để khai tử nó (sẹo ánh sáng).
Sáng tạo thơ được hình dung như một hành động thiêng liêng, đầy bí ẩn, như
“Trong Ơn Gọi”, xảy ra “từ trước thoạt kì thủy”. Viết là hành động được
xác định bởi một con người/ cái tôi cụ thể, đồng thời, là một hành động sáng tạo
đầy bí nhiệm, có thể được thực hiện “bởi một hay nhiều ai đó khác”. Khởi
thủy thơ được hình dung như một giọng nói bí ẩn: một giọng nói/ bằng những
lời chưa được sinh ra/ đã lưu vong bên ngoài mọi ngôn ngữ/ cõi mà ánh sáng là một
thứ mực phai trên trang của đêm/ với bài thơ không bao giờ được viết (prelude).
Từ trải nghiệm thực tế sáng tạo, nhà thơ nhận ra yếu tố hiện hữu dày đặc trong
thơ, lạ lùng thay, chính là những “khoảng trống”, đấy là một nghịch lí
có thực: chúng cần vắng mặt/ để làm nên hiện diện/ cho chính bài thơ mà
bạn đang đọc (khoảng trống); và thơ đích thực vượt ra ngoài mọi
tham vọng định nghĩa và mô hình hóa: bài thơ không ở đây cũng không ở
đó/ nó là cái cây không bao giờ được gọi tên/ mọc và chết bên ngoài mọi khu rừng (bài
thơ trong lòng bàn tay)… Bởi vậy, mỗi bài thơ mở ngỏ “một cánh cửa/
một lối thoát”, sự lựa chọn là ở độc giả - hoặc với “con mắt mở” và
“rời khỏi” hoặc cùng nhà thơ “bằng tâm thế kẻ tội đồ/ đứng bên rìa mọi
ngôn ngữ/ với đôi mắt nhắm” (bài thơ trong lòng bàn tay)…
Không
ngẫu nhiên mà những nhận thức về thơ, về sáng tạo thường được tác giả mô tả như
những hiện tượng, sự việc vận động và phát triển trong thời gian. Điều này thể hiện sự nhất quán trong mạch tư duy của tác giả: từ thế giới
đến con người, đến thơ ca, tất cả đều là sản phẩm của thời gian, bị/ được chi
phối bởi thời gian. Vấn đề là tác giả không dừng lại ở thời gian bên ngoài
với những quy luật vật lí chung nhất. Anh ta đẩy sự suy nghiệm tới tầng thời
gian nội tại, nhằm xác định bản chất của tầng thời gian ấy trong mối liên hệ với
đời sống và cá nhân. Chính ở đó, tính chất độc nhất của những trải nghiệm sống
và sáng tạo trở thành nền tảng cho sự xác tín về giá trị.
Cái
tên tập thơ - thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan - đã gợi ý cho tôi về
cách nhận thức, tư duy và tổ chức hình tượng thời gian của tác giả. Tập
thơ được cấu trúc theo bốn (nhịp/ chiều) thời gian: 1) nhịp đời thứ
nhất; 2) thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan; 3) mai
này khi chúng ta rời khỏi; 4) từ trước thoạt kì thủy. Có thể
nói một cách vắn lược, thời gian thứ nhất tập trung vào tuổi ấu thơ cùng những
"vọng âm" của nó; thời gian thứ hai chủ yếu nói về quá trình
"thời gian ăn tôi" cũng là quá trình phát triển của mỗi cá
nhân; thời gian thứ ba suy ngẫm về cái chết và sự "rời khỏi";
thời gian thứ tư suy ngẫm về thơ và sáng tạo. Trong quan niệm văn hóa phổ biến,
bốn (4) vốn là con số hàm chứa nhiều ý nghĩa tượng trưng[2]. Có lẽ, đây không phải là
sự trùng hợp ngẫu nhiên. Cách tổ chức này tạo nên một cấu trúc triết lí - tượng
trưng khá rõ, thể hiện trong sự tương ứng giữa ý tưởng chủ đạo và hình thức
trình bày văn bản, cách sử dụng hình tượng, hình ảnh và nhịp điệu, thể
thơ...
Trong
phần thứ hai, có một bài thơ cùng tên với tiểu mục, đồng thời, tên của nó cũng
là tên tập thơ - thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan. Bài thơ
được cấu tứ theo trình tự thời gian, từ tháng Bảy đến tháng Mười Hai. Mỗi khổ
thơ tập trung vào sự tác động giữa thời gian (được nhân hóa qua từng tháng) tới
tôi trong bối cảnh mỗi tháng. Phần cuối bài mở ra viễn cảnh tiếp diễn của sự vô
định: Ngày nối tiếp ngày/ trong bước chân của đá/ cơn mộng du nặng nề bất
trắc. Bài thơ sử dụng nhiều động từ, ví dụ ăn, nhìn, bày, ướp, nghe…;
đồng thời tập trung mô tả sự cảm nhận qua các giác quan: "mùi mưa ẩm"
(khứu giác), "ảo ảnh lưỡi và môi", "vị da thịt"
(xúc giác, vị giác), "nhìn tôi bằng con mắt lờ lững" (thị
giác), "nghe tôi thở" (thính giác)… Từ một ý niệm trừu tượng,
thời gian hiện diện như một/ các sinh thể đầy giác quan và cảm giác. Điều
này nhằm cụ thể hóa, vật chất hóa về sự "ăn tôi" của thời gian, bao gồm
cả “sự ăn” thân thể lẫn tinh thần, tư tưởng, đặc biệt ở giai đoạn vận động,
phát triển và trưởng thành của cá nhân. Có thể hình dung bài thơ như một điểm
nhấn, một nút thắt nhằm tạo nên sự gắn kết giữa nhan đề, bố cục các phần và ý
tưởng, cảm hứng chủ đạo. Nếu đọc nhan đề, ai đó băn khoăn về đặc điểm, phẩm
tính cũng như mối quan hệ đặc biệt giữa thời gian và cái tôi trữ tình được
trình bày trong một mệnh đề ngữ pháp mạch lạc (chính sự sáng rõ một cách khác
thường, ít khi gặp trong nhan đề thơ này lại là yếu tố gây cấn, gây nghĩ), thì
ít nhất, ở đây, họ cũng được giải đáp phần nào. Tuy vậy, chỉ dừng lại ở bài thơ
này là chưa đủ. Để hiểu ý tưởng “thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan”,
như đã phân tích ở trên, cần phải nhìn trên toàn bộ cấu trúc chỉnh thể, và cả ở
những khổ, đoạn, hay chi tiết, hình ảnh... tưởng chừng li tâm mà thực chất vẫn
nằm trong mạch chủ đạo.
Với thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan,
cái tôi luôn hiện diện trong tư cách một sinh thể thời gian. Sống trong thời gian, bị chi phối và tác động bởi thời gian khách quan, anh ta luôn có ý thức để tạo nên một thời gian chủ quan, của riêng mình.
Từ góc nhìn này, thời gian của tôi được cá biệt hóa, cấu trúc hóa, biểu tượng hóa. Hồi ức, trực giác, những trải nghiệm sâu kín, riêng tư và cả những cảm giác tâm linh, siêu nghiệm đã trở thành “vật liệu”
để kiến tạo nên một hình tượng thời gian độc đáo. Đấy là một dòng chảy tinh thần
không thể đo lường bằng các đại lượng, công cụ vật lí mà chỉ có thể đo lường bằng
chiều sâu của nội tâm, tư tưởng. Tuy vậy, thiên hướng nghiêng về suy tưởng – diễn
giải ý niệm khiến ngôn ngữ thơ Linh Văn không khỏi có lúc sa vào tư biện. Nhịp
thơ đều và chậm, tương ứng với mạch cảm xúc ít biến động, thiếu những cao trào
nội tâm. Hình ảnh thơ đẹp, có tính mĩ lệ, song thường gợi ra một thế giới dường
như đã bị trừu xuất khỏi đời sống cụ thể, thiên về nội cảm và có tính khép kín.
Thời
gian của Linh Văn có một nhịp vận hành riêng: nhịp của dòng chảy mang tính nội
quan, trực giác, được nhận ra từ điểm nhìn bên trong của chủ thể trữ tình. Nhịp
thời gian ấy rất khác với nhịp thời gian trong cảm hứng trữ tình truyền thống vốn
dựa trên cảm quan thời gian khách quan và có thể đo đếm. Thông qua chuyển động của
tưởng tượng, hồi ức và trực cảm, Linh Văn có thể “đi tìm thời gian đã mất” (Marcel Proust) và cả thời gian tương
lai trong chính thời gian hiện tại. Đấy là một dạng thức thời gian tinh thần, được
tạo nên bởi đời sống và trải nghiệm cá nhân, mang tính độc nhất. Hoặc, như chính
tác giả đã nói, “thứ thời gian của riêng tôi, làm nên chính
tôi bây giờ và mai sau”.
Vinh,
1/12/2025
L.H.Q
[1] Tiêu đề của tập
thơ và các bài thơ không viết hoa
[2] Tham khảo
Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế
giới, Nxb Đà Nẵng, Trường Viết văn Nguyễn Du, trang 101: “Có bốn phương, bốn
gió, bốn trụ của Hoàn Vũ, bốn kì của tuần trăng, bốn mùa, bốn nguyên tố, bốn
khí chất, bốn con sông ở Thiên Đường, bốn chữ cái trong tên Chúa Trời (YHVH)
trong tên con người đầu tiên (ADAM), bốn cánh của chữ thập, bốn tác giả kinh
Phúc Âm… Bốn còn là con số làm nổi bật vũ trụ trong tổng thể của nó”.
.jpg)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét