ĐIỀU GÌ KHIẾN MẸ TIN
(Về
tập Bài ca sau mưa của Đặng Văn Hùng, Nxb Đà Nẵng, 2025)
Lê Hồ Quang
Ấn
tượng trước hết của tôi về Bài ca sau mưa là sự nhỏ nhắn, khiêm nhường của nó. Tập thơ
chỉ có 49 trang, không kể mục lục, với khổ in 10,5 x18 cm, có thể cầm gọn trong
tay. Số lượng bài cũng ít và thường rất ngắn, có khi chỉ vài dòng. Nhưng chúng khơi
mở những cảm giác đặc biệt nhẹ nhõm và dịu dàng.
Là một thầy giáo, tác giả ưa viết về một không gian thân mật và gần gũi - con đường đến trường, lớp học có nhiều cửa sổ, những cô cậu học trò mơ mộng... Tuy nhiên, nếu đời sống học đường trong sáng tác của nhiều tác giả thường gắn với những mối tình học trò và những rung động lãng mạn đầu đời của chủ thể trữ tình, kiểu “Vậy đó, bỗng nhiên mà họ lớn/ Tuổi hai mươi đến có ai ngờ/ Một hôm trận gió tình yêu lại/ Đứng ngẩn trông vời áo tiểu thơ” (Học sinh - Huy Cận) hoặc “Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc/ Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường/ Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương/ Tôi thay mực cho vừa màu áo tím” (Tuổi mười ba - Nguyên Sa), “Em tan trường về/ Đường mưa nho nhỏ/ Chim non giấu mỏ/ Dưới cội hoa vàng” (Ngày xưa Hoàng Thị - Phạm Thiên Thư)… thì trong Bài ca sau mưa, chủ thể trữ tình thường quan tâm hơn đến công việc hàng ngày của một… ông giáo. Điều này thể hiện ngay trong tên các bài thơ, chẳng hạn Trước giờ dạy tối, Để chuẩn bị cho một bài giảng, Bài giảng về kể chuyện, Nghe chữ… Nhưng quả thực, ít khi công việc sự vụ chốn trường sở (vốn thường được mặc định là khô khan, tẻ nhạt, mệt mỏi), lại hiện lên trong những câu thơ một cách ân cần và trìu mến như vậy.
Antoine De Saint-Exupéry viết trong Hoàng Tử Bé: “Người lớn nào thì thoạt tiên cũng là trẻ con. (Nhưng ít người trong bọn họ nhớ được điều đó)”[1]. Nhân vật trữ tình trong Bài ca sau mưa không cố gắng trở thành một đứa trẻ, bởi đơn giản là có một đứa trẻ sống trong anh ta. Đứa trẻ ấy có thể tìm thấy vẻ đẹp và niềm vui hồn nhiên trong mỗi khoảnh khắc ngày thường, khi nhìn những hạt mưa rơi, khi thơ thẩn trong vườn cùng chó và mèo, khi tò mò về những trái thù lù biến mất, khi nhìn những dấu chân chim in trên bãi đất hoặc buổi chiều ngồi lặng yên trong quán cà phê… và những câu chuyện - thơ cứ thế được nhân lên bằng xúc cảm và trí tưởng tượng tự nhiên, trong trẻo. Điều này giải thích vì sao anh ta có thể sẵn sàng ngưng bài giảng đã chuẩn bị chu đáo để cùng với học trò, “mỉm cười/ và lại nhìn ra ngoài kia/ trong nắng trưa”; để nghe những “hạt mơ” thay vì những hạt mưa “rơi xuống những hàng chữ/ như những cái cây nghiêng ngả”… Cùng với những đứa trẻ, anh ta “rời khỏi ghế/ đến bên cửa sổ/ ngắm buổi chiều”. Khi đó, “mọi sự chuẩn bị/ cho bài giảng về thơ/ chợt tan biến”. Thơ thực sự đang ở ngoài kia, đằng sau cánh cửa sổ rộng mở.
Hãy
đọc thử một bài thơ trong tập.
Cuối
hành lang
một
cậu bé
chẳng
biết vì điều gì
rời
khỏi lớp học
ngồi
tựa vào cửa sổ
tôi
hỏi, sao em không vào lớp học?
cậu
mỉm cười
và
lại nhìn ngoài kia:
trong
nắng trưa
dưới
vòm cây
một
người ngồi nghỉ ngơi
mèo
nằm ngủ
mấy
con bướm trắng
bay
lên cao
và
biến mất giữa những chiếc lá
Các
dòng thơ không có chữ viết hoa nào. Như thể, nếu có một chữ viết hoa thôi, mọi
thứ sẽ trở nên cứng nhắc, nghiêm trọng và cái không gian yên ả, mơ mộng, trong
veo kia sẽ lập tức biến mất. Giọng kể, tả rất khẽ, như lời nói thì thầm. Dõi
theo con mắt cậu bé, người thầy bỗng nhận ra một thế giới khác, ngây thơ và trong
trẻo. Cái nhìn của trẻ thơ đã phát hiện ra một thế giới đầy rung động. Có
một sự “đổi vai” ý nhị ở đây. Không phải là người thầy mà ngược lại, chính cậu
bé, bằng sự thơ ngây và hồn nhiên của trẻ thơ, đã mở ra cánh cửa mới về thế giới,
dạy lại ông thầy bài học về Tự nhiên, cái đẹp, sự rung động.
Xin
lưu ý, luôn có khoảng cách trữ tình giữa cái tôi chủ thể và những đứa trẻ - đối
tượng ngắm nhìn, mô tả. Chủ thể vẫn nhiều tư lự, bất an hơn so với đứa trẻ sống
trong anh ta, và đương nhiên, những đứa trẻ học trò, đang học những bài học về cuộc
sống và thơ ca từ thầy giáo của mình. Nhưng thế giới trẻ thơ tinh khôi, hiền
hòa ấy không phải là một hiện thực một chiều, đơn giản. Một trận ốm, cái chết của
một nhà thơ, cảm giác về những lưỡi cưa đang đến gần hàng cây… là một hiện thực
khác, song hành, ngầm ẩn không ít tăm tối và bất an.
Còn
đây là một bài thơ khác.
Bờ
kè
sông
đã hạ
từ
chân bờ kè
cỏ
cây dần hiện ra
dưới
nắng
bóng
của chúng
lặng
yên
trong
dòng nước chảy
ở
phía xa
trên
bãi đất
một
con cò trắng
vỗ
cánh bay lên
còn
lại những dấu chân
Bờ
kè, như trong tranh của Claude Monet, được mô tả trong cảnh sắc sông nước và sự
phản chiếu ánh sáng đẹp đẽ. Nó hiện lên từ nhiều góc nhìn: chân bờ kè, trong
dòng nước, trên bãi đất… Nó đặc tả sự chuyển động: sông đã hạ; cỏ cây dần
hiện; dòng nước chảy; con cò trắng/ vỗ cánh bay lên. Hoàn
toàn vắng bóng con người. Chỉ cái nhìn chủ thể theo sát mọi sự chuyển biến, đổi
thay của cảnh sắc, sự vật: một con cò trắng/ vỗ cánh bay lên/ chỉ còn lại những
dấu chân. Trong thoáng chốc, cái có đã thành không. Cảnh tượng ấy gợi nhớ đến
câu thơ nổi tiếng của Vương Bột: Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thuỷ cộng trường
thiên nhất sắc. Tuy vậy, nếu trong câu thơ của Vương Bột, ta thấy rõ sự hòa
điệu, nhất thể (tề phi, nhất sắc) của cảnh vật, thì trong con mắt phân
tích của nhà thơ nay, nổi bật tính chất chia tách của cảnh tượng (thể hiện qua
cách ngắt nhịp, tương ứng với tính chất và chuyển động của sự vật). Bài thơ nhấn
mạnh cái khoảnh khắc của hiện tại, khi mà ở đó, cái – đang – là được kéo
giãn ra, hãm chậm lại, để con người có thể cảm nhận sâu sắc cái thời khắc mà mỗi
giây trôi qua là một thời khắc từ tốn biến mất vào vô tận: Cái bay không đợi
cái trôi/ Từ tôi phút ấy sang tôi phút này (Đi thuyền – Xuân Diệu).
Nhịp ngắt của những câu thơ góp phần trình hiện một cái nhìn, một câu chuyện, một
trải nghiệm cá biệt của cái tôi trữ tình, bao gồm cả cảm giác phân vân, nghi hoặc
về thế giới mà anh ta đang sống, đang chuyển hóa, thay đổi.
Trong
một bài thơ – Sinh nhật, tác giả bày tỏ nỗi băn khoăn khi người mẹ nhẫn
nại chăm sóc cho một cái cây ốm yếu. Câu hỏi “Điều gì khiến mẹ tin rằng/ cái
cây ốm yếu kia/ có thể sống?” trở đi trở lại trong bài thơ. Cái cây ốm yếu
là ẩn dụ cho sự sống yếu ớt – có thể là con người (chính nhân vật trữ tình), một
sinh vật tự nhiên, hoặc sự sống nói chung. Nhưng khi láy lại câu hỏi ở phần
sau, ý nghĩa của nó đã trở nên tập trung hơn, nó là câu hỏi hướng về sự sống
thơ, sự sống của sáng tạo:
Trên
đường thơ
Khi
khát khao vươn tới vẻ đẹp tuyệt kỳ
Con
lại nhớ về câu hỏi năm xưa:
Điều
gì khiến mẹ tin rằng
Cái
cây ốm yếu kia
Có
thể sống?
Bỏ
qua những lớp nghĩa ẩn dụ mà ta có thể dễ dàng đọc thấy (mẹ - điểm tựa tinh thần,
sức mạnh của sự tin tưởng và tình yêu thương v.v.), đây cũng là một lời tự vấn
của tác giả về thơ và sáng tạo. Phải, điều gì khiến mẹ tin rằng/ cái cây
ốm yếu kia/ có thể sống? Điều gì khiến tác giả tin vào thơ để tiếp tục viết,
bất chấp sự mong manh của thơ và cảm giác bất lực trước chữ nghĩa? Và điều gì
khiến chúng ta vẫn tiếp tục đọc thơ và tin vào thơ, bất chấp tình thế và bối cảnh
tồn tại của thơ và con người trong bối cảnh đời sống công nghệ hiện đại?
Câu
hỏi ấy, thực ra, Đặng Văn Hùng đã tìm cách trả lời, trong chính những bài thơ của
mình. Với tác giả này, là thơ – không
khí, mùi vị thiên nhiên. Là thơ – là những cô cậu học trò, trường lớp, những giờ
học… Là thơ – những cảnh tượng, ý tưởng, hình ảnh, vần nhịp, giai điệu… Là thơ,
một cái gì mơ hồ hơn, xa xôi hơn – “trong mỗi chữ/ có một linh hồn nho nhỏ”.
Là thơ, “từ khoảng tối ấy/ con bướm trắng/ lang thang trên những bông hoa
xuyến chi/ bay mãi, bay mãi về phía nghĩa địa”. Như thể ngày và đêm, ánh
sáng và bóng tối, sự sống và cái chết: tất cả hiện diện trong giây phút này,
trong hình ảnh này, cảm giác này. Không ồn ào, không vội vã, không diễn giải. Sự
chuyển động bao gồm cả sự sống lẫn sự lụi tàn ấy chính là bản chất tồn tại. Thơ
là cách để lưu giữ lại những khoảnh khắc sống, hình ảnh sống tươi đẹp rồi sẽ vụt
biến vào hư vô. Phút giây con người phát hiện ra bí mật ấy cũng là phút giây
anh ta được tưởng thưởng, trong niềm hân hoan lặng lẽ, êm ái - đấy
là khoảng lặng vĩnh cửu mà thiên nhiên đã hé lộ riêng với nhà thơ.
Làm
thơ là cách người viết tìm kiếm và xác lập những giá trị tinh thần cần thiết,
theo cách anh ta quan niệm. Những giá trị ấy, Đặng Văn Hùng tìm thấy trong vẻ giản
đơn, yên tĩnh và thuần khiết của thiên nhiên, sự hồn nhiên, trong trẻo, mơ mộng
của trẻ thơ và đương nhiên, trong hành động sáng tạo. Đấy là một nhu cầu tự
thân.
Dù
tự nhiên và kín đáo, thỉnh thoảng tôi đọc thấy trong thơ Đặng Văn Hùng một vài
cái tên: Vương Duy, F. M. Dostoyevsky, Louise Glück, Wisława Szymborska, Phan
Đan… Tôi hình dung về những cánh cửa thơ mở thông sang nhau, và ở đó, những tâm
hồn xa lạ có thể nghe thấy nhau, trong những xúc cảm và trải nghiệm sâu xa, dù
khác quốc tịch, thời đại, trải nghiệm sống. Đó cũng có lẽ là điều mà Đặng Văn
Hùng vẫn thầm tin về lí do người ta vẫn làm thơ và lí do vì sao thơ vẫn sống,
như con người vẫn sống và làm thơ: chỉ một bài thơ/ đủ để bàn tay/ mở ra
cánh cửa/ và khép lại một cánh cửa… Viết là tự mở một cánh cửa để nhìn sâu
vào chính tâm hồn anh, để tự bày tỏ, tự kết nối với chính mình. Viết cũng là để
mở ra một khả năng/ một hy vọng kết nối với người khác, dù nhiều khi thật mơ hồ
ở nơi xa xôi/ ai đó đang đọc thơ mình. Đây có lẽ là động lực hàng đầu chi
phối hành động viết của cá nhân và dẫu với thơ, việc tìm kiếm sự đọc, sự chia sẻ
ngày càng trở nên khó khăn hơn, thì điều đó vẫn không thể ngăn người viết cầm
bút, vì đó là một nhu cầu nội tại. Anh ta viết đơn giản vì anh ta muốn. Và vì
anh ta có thể.
Bài
ca sau mưa là một tiếng thơ nhỏ nhẹ đến đáng ngạc nhiên giữa rất
nhiều hướng tìm tòi, thể nghiệm của thơ hôm nay. Lựa chọn biểu đạt bằng một giọng
điệu nhỏ nhẹ, khẽ khàng, thơ Đặng Văn Hùng có thể sẽ bị lấn át giữa rất nhiều giọng
thơ khác, lớn tiếng hơn, “uy quyền” hơn, được hỗ trợ bởi các diễn ngôn đại tự sự
hay các phương tiện truyền thông đại chúng. Nhưng chính trong lặng lẽ, con người
có thể nghe thấy tiếng tim mình đập rõ hơn. Và cũng trong sự lặng lẽ, thơ có thể
tìm thấy những kết nối, đồng vọng bất ngờ, như cách tiếng thơ của Vương Duy vọng
lại trong Bài ca sau mưa.
Vinh, 28/3/2025
L.H.Q
[1] Antoine De Saint-Exupéry (2013), Hoàng Tử Bé, Nxb Hội Nhà văn, trang 9.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét