PHÁC THẢO TƯ DUY THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
(Qua sáng tác của một số tác giả thuộc thế hệ Đổi mới)
Lê Hồ Quang
Nói tới tư duy thơ là nói tới một loại hình tư duy nghệ thuật mang tính đặc thù[1]. Nó chi phối hoạt động sáng tạo của nhà thơ và được hiện thực hóa, cụ thể hóa thông qua hệ thống quan niệm, tư tưởng và thi pháp thể loại. Tư duy thơ của tác giả chịu sự chế ước của nhiều yếu tố: đặc điểm tâm sinh lý, cá tính sáng tạo, kinh nghiệm và trình độ thẩm mĩ của chủ thể, môi trường văn hóa - xã hội… Nó thể hiện qua những phát ngôn tư tưởng trực tiếp hoặc qua những bài viết phê bình, trao đổi, tranh luận của tác giả, song đặc biệt tập trung thể hiện trên văn bản tác phẩm, trong thế giới nghệ thuật được tạo nên bởi ngôn ngữ thi ca tương ứng. Đổi mới thơ, xét từ bản chất của nó, chính là đổi mới tư duy. Chỉ đổi mới hình thức hay nội dung thơ chưa phải là đổi mới tư duy. Đổi mới tư tưởng, quan niệm về thơ cũng mới chỉ là một yếu tố (dù rất quan trọng) của đổi mới tư duy. Vậy thế nào mới thực sự đổi mới tư duy? Ấy là khi ở tác giả hình thành một mô hình nhận thức – sáng tạo mới, khác (thậm chí đối lập) với trước và nhờ đó tạo nên sự thay đổi mang tính gốc rễ trong thế giới nghệ thuật tương ứng. Có thể khẳng định, đổi mới tư duy thơ chính là nền tảng của mọi sự cách tân, đổi mới thơ. Nghiên cứu tư duy thơ là cách để hiểu/ lý giải triệt để hơn cả về “cơ chế” hoạt động sáng tạo của chủ thể, nhằm cắt nghĩa sâu hơn về những đặc thù nghệ thuật trong tác phẩm (dĩ nhiên cũng cần tính đến yếu tố vô thức trong sáng tạo của nghệ sỹ). Nó đưa lại nhận thức về tác phẩm như một cấu trúc chỉnh thể bao gồm nhiều yếu tố liên kết chặt chẽ. Cũng có thể xem đấy như một điểm tựa phương pháp luận giúp ta nhận ra nét đặc thù khu biệt các loại hình nhận thức thẩm mĩ, từ đó, có được sự đánh giá khách quan, khoa học cần thiết về các hiện tượng thơ, nhất là những hiện tượng mới, phức tạp.
“Thế hệ nhà thơ Đổi mới” là thuật ngữ mang tính quy ước,
nhằm chỉ một thế hệ nhà thơ Việt Nam đương đại có những đặc điểm sau: về độ tuổi,
họ chủ yếu thuộc thế hệ 5X, 6X; xuất hiện
và gây chú ý trên thi đàn vào thời Đổi mới (sau 1986); có những cách tân quyết
liệt trong quan niệm và thi pháp... Xét về mặt lịch sử, có thể nói đây là thế hệ
trung gian nối kết giữa thế hệ nhà thơ chống Mỹ và thế hệ tác giả “thơ trẻ” sau
này (“thơ trẻ” cũng là một thuật ngữ quy ước, nhằm chỉ thế hệ nhà thơ sinh sau
1975, sống và viết trong thời bình). Tính chất “trung gian”, giao thời nói trên
cũng tạo nên tính đặc thù thế hệ ở những ngòi bút Đổi mới. Dù sớm có ý thức
cách tân, song những sáng tác ban đầu của họ cũng chịu ảnh hưởng rõ nét của hệ
hình thi pháp của thế hệ trước đó (cụ thể là thi pháp lãng mạn chủ nghĩa). Bởi
vậy, ở những tác giả này, quá trình tìm kiếm và kiến tạo một tư duy thơ mới
luôn song song với nỗ lực “đập vỡ” thói quen tư duy thẩm mỹ cũ đã định hình. Là
thế hệ trung gian nhưng đồng thời cũng là “thế hệ Đổi mới”, ý thức về vị trí lịch
sử đặc biệt của mình giúp họ sớm xác định mục tiêu cách tân thi ca và nhanh
chóng nắm bắt những cơ hội sáng tạo mà thời đại mở cửa và hội nhập đã mang lại.
Đây là một thế hệ tác giả khá đa dạng, phức tạp và vẫn đang
vận động, sáng tạo. Do giới hạn tài liệu và bài viết, tôi mới chỉ có thể khảo sát vấn đề trong phạm vi sáng tác của một số tác giả như Nguyễn Lương Ngọc, Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều,
Mai Văn Phấn, Nguyễn Bình Phương, Inrasara, Trần Tiến Dũng, Lê Vĩnh Tài...
Ý thức tìm kiếm và xây dựng một tư tưởng
mĩ học mới, làm bệ phóng cho những cách tân, sáng tạo đột phá thể hiện khá rõ ở
nhiều tác giả thế hệ Đổi mới. Song song với sáng tác, họ viết phê bình, trả lời
phỏng vấn, trao đổi, thảo luận,… nhằm nhận diện và xác định vị thế của thơ Việt
Nam trong dòng chảy thi ca thế giới khi hội nhập, từ đó, tìm kiếm và “hoạch định”
con đường sáng tạo cho tương lai. Nhiều nhà thơ đồng thời cũng hiện diện với tư
cách nhà phê bình với nhiều công trình, bài viết thuyết phục, phản ánh khá sâu
sắc ý thức chuyên nghiệp hóa nghề viết ở họ. Dĩ nhiên, ý thức nghề nghiệp không
chỉ có ở các nhà thơ thế hệ Đổi mới. Người cầm bút ai chẳng từng hơn một lần
suy tư về nghiệp viết của mình? Song, thay vì cái suy nghĩ khá phổ biến một thời,
cho rằng thơ ca là chuyện “trời cho”, “làm thơ” là cái thuộc về bản năng, năng
khiếu vốn dĩ và nhà thơ chỉ là “con chim
đến từ núi lạ/ Ngứa cổ hát chơi” (Xuân Diệu), các nhà thơ hôm nay rất có ý
thức (và trên thực tế là đã) không ngừng tìm tòi, tiếp thu, vận dụng đa dạng
các khuynh hướng và phương pháp sáng tạo hiện đại nhằm làm mới cách viết/ kỹ
thuật viết, cũng là nhằm nuôi dưỡng cảm hứng viết. Phương diện lý thuyết, vốn
là cái mà nhiều nhà thơ truyền thống “dị ứng”, nay được xem là sự song hành cần
thiết với sáng tác, có ý nghĩa làm rõ sáng tác, thậm chí có thể gợi mở hoặc định
hướng cho sáng tạo. Nhà thơ Inrasara khẳng định: “Bên cạnh biết làm, ta còn biết
suy tư/ biết nói về nghề. Lý thuyết chẳng những làm rõ sáng tác (dù sáng tác
không hẳn chỉ thuần ý thức) mà còn có thể gợi mở hay dẫn đường cho sáng tạo. Nhất
là các sáng tạo, của hôm nay” [2].
Ông nói rõ thêm: “Nhìn lại hành trình thơ của mình và người đồng hành, là ý thức
mang tính phản tỉnh việc làm của mình và người đồng hành. Nó giúp ta nhận mặt
những nhàm cũ, lối mòn lâu nay ta từng đi và dẫm lên dấu chân kẻ đi trước hay của
chính mình mà không biết, biết còn mơ hồ hoặc biết mà không cảm thấy cần/ không
nỗ lực tránh” [3].
Dù trên thực tế, không phải giữa những “tuyên ngôn” lý thuyết và sáng tác của
các tác giả luôn có sự song hành hiệu quả, song tư tưởng sáng tạo này rất cần
được ghi nhận bởi tính xác đáng của nó.
Nếu trong thời chiến, thơ được quan niệm như tiếng nói của
lý tưởng Cách mạng, tiếng nói của “đồng chí, đồng ý, đồng tình”, là một thứ vũ
khí tinh thần đắc lực góp phần vào cuộc chiến đấu của dân tộc thì đến thời Đổi
mới, thơ trước hết là tiếng nói tinh thần của cá nhân hiện đại trong đời sống
hiện đại, khi đối diện trước bao vấn đề phức tạp của đất nước, dân tộc và nhân
loại. Đó là tiếng nói của xúc cảm, của tư tưởng và của cả trực giác, tâm linh.
Nói theo Dương Kiều Minh, “thi ca nằm ở những khoảng trống trong thế giới của
con người. Nơi đời sống tinh thần của mỗi người hướng tới cái bí ẩn, cái vô
biên và cái vô cùng”[4].
Còn nói theo cách của Nguyễn Quang Thiều, thơ chính là kết quả của “một trí tưởng
tượng vô cùng hoang dại, và bằng những cơn mơ bất tận, đầy nhạc tính”, “luôn
chuyển động và sinh nở và biến ảo”. Nó đánh thức “kí ức và ý thức sống”, “tạo dựng
những mối liên hệ bí ẩn”, “gợi mở về một hình thức nào đó của vật chất đã mất’,
“dựng nên một đời sống khác”, “một nhận biết khác”.[5]
Với các nhà thơ thế hệ Đổi mới, sáng tạo thơ hoàn toàn không
tách rời hiện thực, vấn đề là giờ đây thơ cần phải tiếp cận và lý giải hiện thực
theo cách khác. Đó không chỉ là hiện thực của đám đông, của ý thức hệ, của những
cuộc đấu tranh giai cấp…, mà còn là hiện thực nội tâm, tư tưởng, cảm xúc; hiện
thực của vô thức, linh giác… Được chi phối bởi quan niệm ấy, hệ đề tài, chủ đề
trong thơ thời Đổi mới trở nên rộng mở. Từ những đề tài sử thi của thời chiến,
thơ trở về cuộc sống bình dị, nhằm tìm kiếm trong cái hằng ngày, cái đời thường
một diện mạo chân thực và sâu kín hơn của nhân sinh. Cũng do vậy, thơ có khả
năng đi sâu hơn vào cuộc đời với những thân phận, số phận đơn lẻ, buồn bã, nhiều
ẩn ức tâm sự. Nhà thơ cũng khao khát tìm kiếm diện mạo cá nhân trong những
tương quan và chiều kích của văn hóa, lịch sử, mỹ học… Đây là lý do giải thích
vì sao thơ của thế hệ này trở nên giàu tính tư tưởng - triết luận hơn so với
trước đó.
Đặc biệt, các tác giả thế hệ Đổi mới hết sức đề cao giá trị
thẩm mĩ của tác phẩm nghệ thuật. Quan niệm này giờ có vẻ đã không còn mới, nhưng
nếu đặt vào bối cảnh đất nước thời hậu chiến, ta sẽ thấy ngay tính đột phá của nó.
Trong sáng tác (cũng như trong thưởng thức, đánh giá tác phẩm), giá trị thẩm mĩ
được xem như là yêu cầu tối thượng và cũng là đích đến đầu tiên. Do đó, làm thơ
là làm ra cái Mới và trước hết đó là cái mới về thi pháp (ở đây cần hiểu khái
niệm “thi pháp” theo nghĩa rộng, bao gồm cả những nguyên tắc nghệ thuật chi phối
và hệ thống phương thức, kỹ thuật sáng tạo).Theo nhà thơ Mai Văn Phấn, “đổi mới
thi pháp trước hết là từ chối ve vuốt những sở thích của người đọc, nhằm tạo những
sóng từ khác, những mã số khác trong không gian thơ vừa được khám phá. Lý tưởng
thi ca của sự cách tân nhằm gọi đúng bản chất của sự vật trong nhịp điệu đời sống
hiện đại” [6].
Cách tân, do đó, đã trở thành một nhu cầu thường trực và quyết liệt với các tác
giả thế hệ Đổi mới. Phải viết khác trước, cụ thể là phải viết khác với hệ hình
thi pháp lãng mạn chủ nghĩa được khai sinh từ thời Thơ mới mà sau đó vẫn còn
trùm bóng suốt cả chặng đường dài trong thơ Việt hiện đại, từ thời thơ kháng
chiến đến dòng chủ lưu trong thơ sau 1975. Chính vì vậy, cách tân cũng có nghĩa
là “khai trừ”, “đoạn tuyệt” lối viết đã trở thành “chuẩn mực”, “điển phạm”, là
“khai chiến” với một lối đọc/ thưởng thức/ đánh giá đã trở nên quen thuộc, khó
lòng thay đổi của độc giả. Và cách tân cũng có nghĩa là chấp nhận một lối đi hẹp,
thậm chí biệt lập, nhiều gập ghềnh, đôi khi là “tuyệt lộ”. Dĩ nhiên, vấn đề này
cần được nhìn nhận trong mối quan hệ tương tác hai chiều: cách viết mới đòi hỏi
cách đọc mới và ngược lại. Lại cũng nhà thơ Mai Văn Phấn nói rất có lý: “Quá
trình vượt thoát khỏi những quan niệm cũ không chỉ đặt ra cho các nhà thơ mà
cho cả người đọc. Phải là cuộc song hành, đồng bộ, nhà thơ và bạn đọc mới có thể
gặp nhau, cùng kích hoạt những tác phẩm văn học có giá trị” [7].
Học tập, tiếp thu nhiều trường phái, khuynh hướng và phương pháp sáng tác của
thi ca thế giới, nhiều nhà thơ Đổi mới đã mạnh mẽ đổi mới cách nghĩ, cách viết,
chủ yếu theo hướng hiện đại chủ nghĩa và trào lưu hậu hiện đại chủ nghĩa.
Những cách tân trong quan niệm, tư tưởng nói trên đã tạo nên những thay đổi về chất trong hình tượng cái tôi trữ tình. Khác với cái tôi sử thi trong thơ Cách mạng, giờ đây, hiện diện trong thơ thế hệ Đổi mới là một hình tượng cái tôi đa dạng và không dễ khuôn vào một số mô tả giản lược. Trước hết, cái tôi ấy luôn ý thức về mình trong tư cách kẻ hành nghề sáng tạo. Sáng tạo đúng nghĩa luôn đòi hỏi ở người nghệ sỹ khả năng “gây hấn”, “nổi loạn” - với truyền thống, với chính mình - nhằm chống lại những giá trị thẩm mĩ đã trở nên lỗi thời và để xây dựng những chuẩn mực giá trị mới. Tư tưởng này từng xuất hiện trong thời Thơ mới, đặc biệt trong những “tuyên ngôn” của Trường Thơ Loạn và nhóm Xuân Thu nhã tập. Tuy nhiên, với các tác giả Thơ mới, cái tôi thi nhân này chủ yếu hiện diện với tư cách kẻ tìm kiếm cái đẹp thi vị, nên thơ, được lý tưởng hóa theo con mắt của chủ nghĩa lãng mạn. Nhận thức về cái tôi của các nhà thơ Đổi mới đương nhiên càng rất khác so với thế hệ nhà thơ chống Mỹ. Trong thơ thời chống Mỹ và thơ kháng chiến nói chung, tiếng nói nhà thơ là tiếng nói tư tưởng đại diện cho Cộng đồng, Dân tộc, Lịch sử chứ không phải của cá nhân, cá thể. Nội dung tư tưởng chính trị - chứ không phải những tìm tòi hình thức thơ - mới là cái được coi trọng, đề cao. Được hậu thuẫn bởi bối cảnh lịch sử, văn hóa thời Đổi mới, các nhà thơ Đổi mới trước hết đề cao cá tính sáng tạo của nghệ sỹ. Khi ý thức Viết là Sáng tạo, họ đã coi đó chính là con đường để đến với hiện thực, với sự thật đích thực và sâu rộng của đời sống nhân sinh và đời sống nghệ thuật, qua những nỗ lực cách tân và tìm tòi không ngừng của cá nhân người viết. Chính vì vậy, trong một bài thơ mang tính tuyên ngôn, Nguyễn Lương Ngọc đã quyết liệt kêu gọi: đập vụn mình ra mà ghép lại/ Nung chảy mình ra mà tìm lõi/ Xé toang mình ra mà kết cấu (Hội họa lập thể). Mai Văn Phấn quan niệm Viết chính là hành động rời bỏ đám đông đồng thời cũng là hành động rời bỏ chính mình. Đó là một quá trình liên tục “vong thân” với những bước ngoặt trong tư tưởng mĩ học nhằm hướng đến bản chất sáng tạo. Còn Inrasara, nhận thức về sức mạnh cội nguồn trong mối quan hệ với thế giới hiện đại đã cho ông ý thức sâu sắc hơn về sứ mệnh nhà thơ, người canh giữ ngôn ngữ - linh hồn dân tộc mình: “Không ai hát thay cho chúng ta/ nơi đây và lúc này/ cả hôm sau/ có lẽ/… Bởi/ không còn ai đến thay thế chúng ta” (Không ai có thể hát thay chúng ta).
Từ đây, cái tôi thời Đổi mới luôn được ý thức như một thế giới
tinh thần cá nhân hết sức đa dạng, phong phú. Đấy cũng là một cái tôi đầy dự cảm
lo âu về sự tồn tại bản thể. Thơ Dương Kiều Minh vừa phản chiếu cái tức thời của
đời sống cá nhân trong những thời khắc cụ thể, vừa có khả năng trừu xuất khỏi
chính nó, vượt thoát ra ngoài nó, để nghiệm sinh thấm thía hơn, thương cảm hơn
về thân phận con người: Đời con thưa dần
mùi khói/ mẹ già nua như những buổi chiều/
Lăng lắc tuổi xuân/ lăng lắc niềm thôn dã/ bếp lửa ngày đông/ Mơ được về bên mẹ/
ao xưa, mảnh vườn nhỏ ngày xưa/ bậc thềm giàn giụa trăng mỗi tối/ Bên những
hoàng hôn loang lổ gò đồi/ mùi bạch đàn xộc vào giấc ngủ (Củi lửa - Dương Kiều Minh)…
Không khép mình trong những tâm sự cá nhân, cái tôi ấy luôn
ý thức về bản thân trong mối quan hệ đầy ưu tư và trở trăn với cội rễ lịch sử,
văn hóa, đời sống tinh thần dân tộc:
Tổ tiên tôi thức quá
lâu tôi lại ngủ quá lâu
Trong trầm vọng kèn
hơi những họng người đã rách
Bầy lúa nước vừa mang
thai vừa than thở
Với lũ cá rô đồng đang
khao khát mọc chân
Tôi là con chim thay
lông muộn và đang tập giọng bằng cặp mỏ mềm còn ứ đầy máu loãng
Trong niềm rời rạc hân
hoan của nhịp trống chân trời
Đợi bài ca sinh ra từ
những hạt cơm vương trong chân cỏ dại
Từ quả trứng buồn vừa
bóc vỏ thời gian
(Bài hát – Nguyễn Quang Thiều)
Đề cao tiếng nói cá nhân, các nhà thơ Đổi mới đặc biệt đề
cao tiếng nói bản năng, vô thức, tâm linh. Trong thơ chống Mỹ, quan niệm này
triệt để vắng bóng và hết sức dễ hiểu lý do nếu ta đặt trong bối cảnh chiến
tranh và quan niệm thơ thời chiến. Trong Thơ mới, Hàn Mặc Tử chỉ là một trường
hợp cá biệt. Còn cái mơ hồ trực giác trong thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Hoàng
Chương… cũng chỉ nhằm để tăng thêm cái thi vị của tâm trạng, xúc cảm. Xuân Diệu
(người được Hoài Thanh xem là “nhà thơ đại biểu đầy đủ nhất cho thời đại”[8])
dù có nói: “Ai đem phân chất một mùi
hương” thì trên thực tế, yêu cầu phân tích, cắt nghĩa tường tận, rành mạch ở
ông là điều mà nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ rõ. Ngược lại, các nhà thơ Đổi mới
quan niệm về vô thức như một cõi mênh mông hoang dại và bí ẩn của hiện thực cần
chiếm lĩnh. Hơn thế, họ còn ý thức về vô thức, trực giác như một phương tiện sáng
tạo đầy hiệu quả để chiếm lĩnh cõi vô thức, cái hiện thực tinh thần quá đỗi rộng
lớn và khó có thể tái hiện bằng thứ ngôn ngữ nào khác ngoài chính nó. Điều này
khiến việc “đọc” thơ họ trở nên đầy khó khăn với nhiều độc giả. Thơ Nguyễn Bình
Phương là một ví dụ. Có thể nói, thơ ông có một thứ “ngôn ngữ” đầy khác thường,
thứ ngôn ngữ của mộng mị, của những ảo giác hoang lạ chập chờn. Mơ mộng, tưởng tượng và linh cảm như là
biểu hiện cụ thể của thế giới siêu thực cũng xuất hiện khá dày trong thơ Mai
Văn Phấn. Từ những cảm giác, trạng thái cá thể của cái tôi nhà thơ, chúng đã được
đẩy tới thành một trạng thái phổ quát của thế giới, trong đó, mọi trật tự thông
thường đều bị đảo lộn. Hiện diện trong thơ tác giả này là một thế giới “xô lệch”
dị thường. Dĩ nhiên, đấy là một sự đảo lộn cố tình. Sự “đảo lộn” trật tự bề mặt
này nhằm hướng tới mục đích nhận thức và diễn tả một trật tự khác, ở bề sâu của
nó, nơi tồn tại những cảm giác siêu nghiệm không thể kiểm chứng bằng kinh nghiệm
nhưng lại được “chứng ngộ” bởi trực giác, tâm linh.
Về mặt kết cấu, phổ biến trong thơ thế hệ Đổi mới là kiểu
kết cấu mở. Đấy là một kiểu kết cấu
hiện đại, ở đó bài thơ được tổ chức như một cấu trúc vận động, không mang tính
hoàn tất, khép kín về nghĩa như trong kết cấu truyền thống. Có thể nhận diện kết
cấu mở qua một số đặc điểm sau: cố ý mờ
hóa sự xuất hiện của cái tôi trữ tình trên bề mặt văn bản; câu chữ, hình ảnh
được lắp ghép một cách như là ngẫu nhiên, phi logic, tạo nên nhiều “khoảng trắng”
trong xúc cảm và liên tưởng; bài thơ thường được tổ chức theo hướng vận động của
vô thức, trực giác. Nhiều bài thơ không chỉ là một văn bản đơn nhất, thuần nhất mà có thể là một tổ hợp gồm nhiều văn bản... Rõ ràng, kiểu kết cấu này rất khác so với trước đó. Trước
đó, bị chi phối bởi hình thức trữ tình trực tiếp, nhằm giãi bày “chân thực” và
“thiết tha” tâm trạng, cái tôi trữ tình thường được đẩy lên bề mặt văn bản với
đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất. Đồng thời, các yếu tố kết nối ngữ nghĩa, ngữ
pháp cũng được sử dụng phổ biến nhằm đem lại sự rành mạch, sáng rõ trong xúc cảm
và diễn đạt, dễ dàng tạo nên sự truyền cảm và đồng cảm. Có thể thấy rõ điều này
khi ta so sánh Mưa xuân (Nguyễn
Bính), Vội vàng (Xuân Diệu), Hai sắc hoa ti gôn (TTKH), Việt Nam, máu và hoa (Tố Hữu), Đất nước (Nguyễn Đình Thi), Tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật)…
với Hồi tưởng (Nguyễn Quang Thiều), Biến tấu con quạ (Mai Văn Phấn), Liên bút từ sen Huế (Nguyễn Lương Ngọc), Tiếng địch (Dương Kiều Minh), Nhẹ (Nguyễn Bình Phương), Nơi chốn trong sự ra đi (Trần Tiến
Dũng), Làm thế nào để đọc một bài thơ (Lê Vĩnh Tài)… Dĩ nhiên, kiểu tổ chức văn bản này luôn gây ra những hiệu ứng ngược chiều.
Một mặt, nó khiến người đọc thực sự hoang mang khi muốn quy tụ mọi hình ảnh,
câu chữ chừng như tứ tán, hỗn loạn vào một ý nghĩa đơn nhất, khép kín. Mặt
khác, nó “giải phóng” óc liên tưởng, tưởng tượng, “vẫy gọi” những cách lí giải
đa chiều về tác phẩm.
Chính bởi vậy mà phổ biến trong thơ của các tác giả này là
xu hướng tạo hình theo lối siêu thực. Trong Những
người đàn bà gánh nước sông, Nguyễn Quang Thiều đã tạo hình bằng cách xếp đặt
những chi tiết tả thực đến trần trụi bên cạnh những hình ảnh phi thực lớn lao,
tạo nên một hình tượng thơ kỳ vỹ:
Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen tõe
ra như móng chân gà mái
Đã năm năm, mười lăm
năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống
gánh nước sông
Những bối tóc vỡ xối xả
trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn tay họ bám vào đầu đòn gánh bé nhỏ
chơi vơi
Bàn tay kia bấu vào mây trắng
(Những người đàn bà gánh nước sông – Nguyễn Quang Thiều)
Cũng có khi tác giả tạo hình bằng cách giấu mặt triệt để cái
tôi trữ tình, đẩy đối tượng mô tả lên bề mặt văn bản, rút tỉa tối đa những chi
tiết tả thực, và bằng thứ ngôn ngữ như là khách quan, tô đậm ấn tượng lạ lùng về
“cái gì đó không thật” mà lại dường
như không thế thật hơn của cõi sống. Với bút pháp tạo hình này, “khối động” nổi lên lừng lững như một bức
tượng đài nhân sinh:
Khối đá nắng
ngang nhiên lối mòn treo
ngang nhiên rút dây giày mở
Ai kia
lưng quảy đá
lưng quảy rừng
phủi thời gian và chồng xếp lại
phía trước có gì đó không thật
đẩy lối mòn phồng rộp
đẩy đôi giày há mõm
Ai kia
(Khối động – Trần Tiến Dũng)
Thu nạp những phương pháp và kĩ thuật mới của thơ tượng
trưng, thơ siêu thực, thơ tân hình thức, thơ thị giác…, nhiều tác giả Đổi mới
không ngại tổ chức hình thức văn bản thơ theo những cách thức mà nếu so sánh với
truyền thống, ta sẽ thấy hết sức khác thường. Chẳng hạn, câu chữ, hình ảnh có
thể được tổ chức thành những dòng chảy ngôn ngữ miên man, liên tục, đan xen giữa
nhiều cảm giác, hồi ức, linh cảm… vô hạn vô hồi, không dấu ngắt, không ngừng
nghỉ. Trong những câu/ dòng thơ này, dường như vô thức đã tìm thấy “hình hài” của
chính nó:
… bức tượng trong vườn
ngỡ bị trương lên bởi hơi ẩm mưa dầm quánh đặc tràn lỗ tai con chữ chết dính
vào trang sách không rõ ràng cảm xúc văng vẳng cơn mơ tiếng cười lả câu đùa nửa
thực nửa hư trong bóng râm mơ hồ muội ám gốc cây nhòa mái đình ngõ nhỏ người đi
bóng dán xuống hai vệ cỏ liêu xiêu gợi nhớ bà nội đầu năm châm lửa thắp hương
thoảng mùi diêm sinh bay từ chăn chiếu từ nhụy hoa đầy dấu chân ong…
(Mười bài tập mùa xuân - Mai Văn Phấn)
Nhà thơ còn“tạo hình” bằng những khoảng trắng, khoảng trống
được phân chia cố tình giữa văn bản. Hãy đọc/ xem trích đoạn văn bản mô tả âm
thanh tiếng trống Ginang trong thơ Inrasara:
Say
Cuồng say cuồng say cuống
say cuồng
Pagalaung pagalaung
pagalaung
bay bay bay
xuyên qua không
gian dội thời gian
bốn chiều vô lượng chiều
sôi trào vỡ đê tràn bờ
xé tan và quét
sạch sạch sạch
(Inrasara
– Lễ tẩy trần tháng tư)
Từ quan niệm về một đời sống hiện đại phức tạp, thậm phồn,
xuất hiện trong thơ nhiều tác giả Đổi mới tiếng cười hài hước, giễu nhại. Ấy là
tiếng cười xuất hiện khi con người phải đối mặt với một hiện thực đầy nham nhở,
bất toàn, và cùng với điều đó là ý thức “phản tỉnh”, “hạ bệ”, “giải thiêng”.
Thơ mới lãng mạn đương nhiên không thể có tiếng cười này. Ngược lại, thơ chống
Mỹ, dù âm vang tiếng cười, nhưng tính chất tiếng cười sử thi này khác hoàn toàn
so với tiếng cười giễu nhại trong thơ Mai Văn Phấn (Hôm sau), Inrasara (18 bài
thơ tân hình thức và chuyện 40 năm mới kể), Trần Tiến Dũng (Bầu trời lông gà lông vịt), Lê Vĩnh Tài (Thử làm bài thơ mất gà)…
Có
thể khẳng định, trong thơ thế hệ Đổi mới đã xuất hiện một kiểu tư duy mới, hiện
đại. Đây là một điều hết sức ý nghĩa, bởi theo tôi, tư duy thơ chính là yếu tố
căn bản tạo nên sự khác biệt như một
giá trị phải có giữa các thế hệ nhà thơ (và các loại hình thơ), xác nhận sự hiện
diện và đóng góp của mỗi thế hệ trong lịch sử. Nói vậy không có nghĩa là chỉ đến
các tác giả Đổi mới mới xuất hiện kiểu nhận thức – sáng tạo này. Thực ra, dấu vết
của nó đã xuất hiện trong sáng tác của một số tác giả Thơ mới giai đoạn hậu kỳ
như Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân Sanh… Ta cũng có thể thấy sự
hiện diện của kiểu tư duy hiện đại này trong sáng tác của Nguyễn Đình Thi, Trần
Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Hoàng Hưng… hay nhóm Sáng Tạo (trong thơ Miền Nam trước
đó). Điều này cho thấy một sự kế thừa và phát triển, sáng tạo mang tính quy luật
của sự vận động văn học. Cũng cần phải nói thêm rằng, dù gặp nhau theo hướng
phương Tây hóa thi pháp, cụ thể là theo hướng hiện đại chủ nghĩa và trào lưu hậu
hiện đại chủ nghĩa, song mỗi tác giả có những quan niệm và hướng đi khác nhau
và điều này đã tạo nên ở mỗi cây bút một dấu ấn cá tính sáng tạo riêng, độc
đáo. Bên cạnh việc tích cực tiếp thu, học hỏi các khuynh hướng và trường phái
thơ hiện đại trên thế giới, nhiều tác giả thế hệ Đổi mới cầm bút với ý thức và
tinh thần tự tôn dân tộc mạnh mẽ. Bản lĩnh và nội lực cũng như khát vọng hướng
đến cái đích xây dựng một nền thơ Việt hiện đại phát triển, hội nhập với thi ca
thế giới đã cho họ nguồn năng lượng sáng tạo thực sự mãnh liệt và đa dạng.
Tuy nhiên, về thơ cách tân nói chung, đặc biệt những tìm tòi, sáng tạo trong thơ của các tác giả thuộc thế hệ Đổi mới, không phải luôn nhận được những ý kiến đánh giá đồng thuận và ủng hộ. Có lý do khách quan về phía tác giả, tác phẩm. Không phải tác giả thuộc thế hệ Đổi mới nào cũng thực sự đổi mới và ngay trong sáng tác của những tác giả được xem là có nhiều thành tựu, cũng không hiếm những bài mới dừng lại ở mức độ thể nghiệm. Giữa những tuyên ngôn “lý thuyết” và sáng tác nhiều khi chưa tương xứng, còn không ít tác phẩm chạy theo cái mác “cách tân”, mang tính “đánh đố” về mặt kỹ thuật, hình ảnh, ngôn ngữ... Song cũng rất cần chú ý tới nguyên nhân thuộc phía chủ quan người đọc. Ngoài những lý do như sở thích cá nhân, kinh nghiệm, trình độ thẩm mỹ…, sự khác biệt, thậm chí đối lập trong tư duy nghệ thuật của độc giả là nguyên nhân chính khiến việc đọc/ lý giải một đối tượng khác “gu”, khác quan niệm trở thành bất khả. Đứng từ những hệ hình tư duy khác nhau, những quan niệm thẩm mỹ khác nhau, rất khó để đối thoại một cách khách quan, bình đẳng.
Cùng với những thế hệ tác giả sau 1975, thế hệ nhà thơ Đổi mới đã tạo nên một không gian thẩm mĩ mới, vượt ra khỏi từ trường thơ truyền thống, giúp đa dạng hóa không gian thẩm mĩ của thơ Việt Nam đương đại và góp phần hình thành thị hiếu tiếp nhận thẩm mĩ mới, hiện đại. Sự khác biệt giữa các thế hệ nhà thơ, xét cho cùng, nằm trong sự khác biệt của loại hình tư duy. Sự khác biệt ở đây chính là một giá trị, nó khẳng định sự đóng góp của mỗi thế hệ cầm bút vào sự phát triển của lịch sử thi ca. Bởi vậy, tìm hiểu tư duy thơ Việt Nam hiện đại trên cứ liệu sáng tác của các thế hệ cầm bút là một vấn đề cần phải được nghiên cứu, mô tả, lý giải sâu hơn. Bài viết này mới chỉ là một phác thảo sơ lược.
Vinh, 17/2/2016
L.H.Q.
(1) Trong
bài viết này, tôi chỉ giới
hạn xem xét khái niệm tư duy thơ trong tư cách loại hình tư duy sáng tạo của chủ thể tác giả
- nhà thơ.
(2),
(3) Inrasara: Song thoại với cái mới,
Nxb Hội Nhà văn, H., 2008, tr.11, tr.7.
(4) Dương Kiều Minh: Thơ Dương Kiều Minh, Nxb Hội Nhà văn, H.,
2011, tr. 482.
(5) Nguyễn Quang Thiều: “Trong căn phòng của một người bại liệt”,Châu thổ, Nxb Hội nhà văn, H., 2010, tr. 10-18.
(6), (7) Mai Văn Phấn: Thơ tuyển
mai Văn Phấn, Nxb Hội Nhà văn, H., 2011, tr. 378, tr. 380.
(8) Hoài
Thanh, Hoài Chân: Thi nhân Việt Nam, Nxb
Văn học, H., 1996, tr.46.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét