TRƯỜNG HỢP LÊ VĨNH TÀI
hãy chạm vào phím, bài
thơ sẽ tự mở khoá
Thơ tìm thấy một từ và nó
sẽ thở
(Làm thơ - Lê
Vĩnh Tài)
Lê Hồ Quang
1. Thơ mạng (internet poetry) là loại hình thơ gắn với nền tảng, không gian công nghệ số, đặc thù của nó là sự lai ghép, nói đúng hơn, là sự cộng sinh giữa hai thành tố - thơ và internet. Cuộc hôn phối với công nghệ số và các phương tiện kĩ thuật hiện đại khiến ranh giới ổn định về mặt thể loại của thơ trữ tình truyền thống bị phá vỡ. Không gian công nghệ và môi trường số đòi hỏi một tâm thế và tư duy sáng tạo, tiếp nhận mới, khác (tạm gọi là tâm thế và tư duy mở, động), so với truyền thống (xuất bản/ in trên giấy, có tính đóng, tĩnh). Do đó, với thơ mạng, quan niệm về tác giả, độc giả, nguyên tắc giao tiếp và giá trị tác phẩm…, đương nhiên sẽ giãn nở, thay đổi, thậm chí được tái định nghĩa.
Vào thập niên đầu thế kỉ
XXI, khi internet bắt đầu được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam, thơ mạng viết bằng
tiếng Việt cũng xuất hiện phổ biến trên các tạp chí điện tử, các website văn
học (talawas.org, tapchitho.org, vanchuongviet.org, damau.org, gio-o.com …) và
về sau, trên Webblog, Yahoo 360, Facebook, Instagram... Nhiều khuynh hướng tìm
tòi, cách tân, thể nghiệm thơ khác nhau đã bùng nổ trên không gian mạng.
Internet đã mở ra một không gian hiện đại, dân chủ và vô cùng rộng rãi cho hoạt
động sáng tác và phê bình, tranh luận nghệ thuật.
Cho đến nay, khi nói đến
thơ mạng viết bằng tiếng Việt, ta có thể nhắc đến không ít tên tuổi: Khế Iêm,
Inrasara, Nguyễn Quốc Chánh, Trần Tiến Dũng, Mai Văn Phấn, Nguyễn Thế Hoàng
Linh, Trần Nguyễn Anh, Lý Đợi, Bùi Chát, Lê Vĩnh Tài, Nguyễn Thanh Hiện, Pháp
Hoan, Nguyễn Huy Hoàng, Nguyễn Hàn Chung, Nguyễn Đức Tùng, Lê Anh Hoài, Phạm
Hiền Mây, Trần Hạ Vi, Nguyễn Phong Việt, Nồng Nàn Phố, Nguyễn Thiên Ngân…[1]
Trong số các tác giả
thơ mạng nói trên, Lê Vĩnh Tài - không nghi ngờ gì nữa - là một gương mặt đặc
biệt.
2. Lê Vĩnh Tài hiện
sống và làm việc tại Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Trước khi chủ yếu viết và
công bố thơ trên mạng, ông từng xuất bản nhiều ấn phẩm ở những nhà xuất bản uy
tín trong nước, chẳng hạn: hoài niệm chiều
mưa (Nxb
Thanh niên, 1991); và
nỗi nhớ đã bắt đầu với gió (Nxb Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh, 2004); Liên
tưởng (Nxb
Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh, 2006); đêm và
những khúc rời của Vũ (Nxb Hội Nhà văn, 2008); thơ
hỏi thơ (Nxb
Thanh Niên, 2008)… Đầu thế kỉ XXI, ông bắt đầu công bố tác phẩm trên các
website văn học như tienve.org, damau.org, vanchuongviet.org, vanviet.info... Gần đây,
sáng tác của ông được cập nhật thường xuyên trên facebook Lê Vĩnh Tài, bao gồm
thơ ngắn, trường ca, thơ văn xuôi, tản văn, tiểu luận.
Quan sát, nhận thức hiện thực trong sự chuyển động và tương tác đa chiều giữa thơ và nhiều phương diện đời sống xã hội, văn hóa, nghệ thuật, công nghệ, Lê Vĩnh Tài đã biến thơ thành một trò chơi ngôn ngữ, ở đó, đường ranh thể loại/ loại hình giữa thơ với tin tức báo chí, văn xuôi, lí luận phê bình, ngôn ngữ máy tính… bị chồng lần, xóa mờ một cách có chủ ý. Ở thơ Lê Vĩnh Tài, ta thấy rõ tinh thần thể nghiệm, ý thức chất vấn về sự viết và mong muốn tìm kiếm những khả thể nghệ thuật mới. Thơ ông khiêu khích quan niệm và cách đọc truyền thống, đồng thời đặt ra nhiều vấn đề về cách viết, cách đọc.
Tính tốc độ là đặc tính ưu
trội của thơ mạng nói chung, cũng là đặc điểm đầu tiên, dễ nhận thấy của thơ Lê
Vĩnh Tài. Nhờ máy tính và internet, thay vì phải trải qua nhiều công đoạn như
khi xuất bản trên giấy, chỉ cần vài click chuột, tác giả có thể lập tức đưa tác
phẩm đến với người đọc. Tuy nhiên, với Lê Vĩnh Tài, tính tốc độ không chỉ nằm
trong việc công bố sản phẩm. Nó nằm trong tư duy: một sự việc nhỏ, bất kì cũng
có thể khiến que diêm ý tưởng trong ông nháng lửa và bài thơ tức thì có mặt
trên timeline của Facebook Lê Vĩnh Tài. Tư duy thơ nhanh, mạnh ấy thể hiện qua
tốc độ hình thành ý tưởng, tốc độ cấu thành đơn vị bài và tốc độ xuất bản, công
bố, đưa “bài thơ” đến với người đọc trong trạng thái nóng rẫy, bám sát các sự
kiện thời sự - xã hội. Sở đắc một tư duy nhanh nhạy đặc biệt, Lê Vĩnh Tài đã
gặp được internet cùng các phương tiện công nghệ - trợ thủ đắc lực trong việc
khuếch trương tốc độ ấy lên thành một sức mạnh và độ bền hiếm có.
Tốc độ thơ của Lê Vĩnh Tài
có mối liên quan mật thiết với tính ngẫu hứng trong mạch liên tưởng và các thao
tác “chế tạo thơ ca” (Phan Nhiên Hạo). Khả năng kết nối nhanh chóng, hài hước
về mối quan hệ giữa cái gọi là thơ với tất cả những gì xung quanh giúp ông có
nguồn nguyên liệu dồi dào và duy trì cường độ bền bỉ trong thực hành sáng
tạo. Nguyên liệu thơ Lê Vĩnh Tài là nguồn thông tin khổng lồ trên internet
và mạng xã hội, hiện diện dưới nhiều dạng thức (sự kiện, tin tức thời sự, hình
ảnh, status, comment, chat…). Nó là cái hiện thực bề bộn, trương nở, không hoàn
kết, đang thì trôi chảy, nảy sinh dựa trên những gợi ý, tương tác ngẫu nhiên,
bất ngờ. Trong thơ ông, sự kết nối liên văn bản (văn bản thơ với “văn bản” đời
sống xã hội, chính trị; văn bản thơ này với các văn bản thơ khác; văn bản thơ
với các hình ảnh minh họa, comment tương tác…) trở thành một thủ pháp phổ biến.
Nó tạo nên sự “liên kết chuỗi” khá đặc biệt giữa ngôn ngữ nghệ thuật và ngôn
ngữ máy tính; thơ và tin tức báo chí; thơ và đời sống chính trị, kinh tế, văn
hóa; thơ và các loại hình nghệ thuật khác (nhiếp ảnh, điện ảnh…), san phẳng
vách ngăn giữa thơ và những loại hình phi/ không phải thơ, giải lãnh thổ hóa
quan niệm truyền thống về thơ. Ở cách ứng xử với vật liệu này, ta có thể nhận
ra biểu hiện của nguyên tắc “khước từ sự lựa chọn" (selection) trong lúc
“sản xuất văn bản” [2] của tác giả hậu hiện đại. Ở đó, vật
liệu và sản phẩm “ngang nghĩa và ngang giá trong cái thế giới của hỗn độn và
tương đối hoàn toàn, nơi mọi giá trị đều bị hạ giá”. [3] Đó là lí do các nghệ sĩ Tây Âu
đương đại sử dụng các “đồ vật tìm được” để biến thành sản phẩm nghệ thuật:
Đài phun nước (Fountain) của Marcel Duchamp hay Diễn viên hài (tác phẩm quả
chuối dán trên tường) của Maurizio Cattelan là những ví dụ điển hình. Bằng
việc xóa mờ ranh giới giữa vật liệu sản xuất/ sản phẩm nghệ thuật, họ nhằm
phá bỏ quan niệm cứng nhắc về mối quan hệ giữa nghệ thuật và thực tại, đòi hỏi
ý thức mới về sáng tạo.
Có thể hình dung thơ mạng
Lê Vĩnh Tài như một sân chơi khá cởi mở và tự do, ở đó, mọi tiếng nói bình
đẳng, không có sự phân biệt giữa cao/ thấp, trung tâm/ ngoại biên, thanh/ tục….
Quyền hiện diện và cất lời/ im lặng ở chúng là ngang nhau. Sáng tạo là góp thêm
một cái nhìn, một tiếng nói về thế giới, để đối thoại với những cái nhìn khác,
tiếng nói khác chứ không (và cũng không thể) áp đặt cái nhìn độc đoán về thế
giới. Trong khi Xuân Diệu kiêu hãnh tự xem mình như ngọn cô sơn sừng sững trên
lớp sóng nhân quần và nỗi cô đơn u sầu của anh ta có giá trị như cả một thế
giới, Tố Hữu ý thức về mình ở vị trí người lính tiên phong, đại diện phát ngôn
cho/ của một thời đại hào hùng, thì Lê Vĩnh Tài chỉ xác định mình như một cái
nhìn riêng lẻ về thế giới, mang tính phân mảnh, đầy phiến diện, bất toàn - chỉ
là một trong vô số. Điều này tự nó đem lại một hình dung gần hơn về
một thế giới giải lãnh thổ hóa, phi trung tâm và thậm phồn, ở đó, cái nhìn về
thế giới - dù là của ai, cũng luôn bị giới hạn, đầy những định kiến và không
thể đưa lại chân lí phổ quát.
Nhãn quan dân chủ này kéo
theo giọng điệu có tính đặc thù - giễu cợt, khôi hài, ngấm ngầm hoặc công khai
khiêu khích, đồng thời mang tính đối thoại và gợi mở đối thoại. Đại từ nhân
xưng Lê Vĩnh Tài sử dụng nhiều hơn cả là “bạn”. Đó là một tư cách phát ngôn vừa
xác định vừa phiếm chỉ. Nó cất tiếng từ một vị trí phát ngôn cụ thể nhưng trong
đó đã đan lồng những cái nhìn khác, vượt ra ngoài một chủ thể riêng lẻ. Từ
“bạn” phổ biến trong thơ Lê Vĩnh Tài đến nỗi có thể xem nó là một cách “phục
trang cho bản ngã” (Costica Bradatan) của tác giả, hoặc, một diễn ngôn
nhằm đưa thơ vượt ra ngoài những thiết chế cố định, để mở rộng những khả thể và
những lựa chọn khác. Công bố trên mạng, càng ngày ngôn ngữ thơ của Lê Vĩnh
Tài càng tự do, đơn giản và táo bạo. Trong khi một số hiện tượng thơ mạng có số
lượng theo dõi và tương tác cao như Nguyễn Phong Việt, Nguyễn Thiên Ngân, Nồng
Nàn Phố… rất chú ý đáp ứng độc giả, cụ thể là lớp độc giả đại chúng trẻ tuổi,
bằng ngôn ngữ thơ đậm tính lãng mạn chủ nghĩa, thì Lê Vĩnh Tài chú trọng hoạt
động thực hành sáng tạo cá nhân hơn là chiều theo mĩ cảm của số đông, dù luôn
giữ thái độ tương tác ôn hòa, nhã nhặn.
Nếu có ai
đó cho rằng thơ Việt Nam đương đại thiếu vắng tinh thần công dân, điều đó hoàn
toàn không đúng với trường hợp Lê Vĩnh Tài và không ít tác giả cùng thời. Trong
thơ thời chiến, tinh thần công dân chủ yếu được thể hiện qua tiếng nói yêu
nước, lòng tự hào dân tộc và niềm tin vào lí tưởng chính trị của thời đại.
Trong thơ thời hậu chiến, đổi mới và hội nhập, cách hiểu về tinh thần công dân
được mở rộng, có thêm nội dung và tính chất mới. Giờ đây, tinh thần công dân
không chỉ là tiếng nói “đồng ý, đồng chí, đồng tình” mà thể hiện trong chính ý
thức phản tỉnh, tinh thần phản biện xã hội mạnh mẽ, thậm chí gay gắt.
Thái độ
chính trị trong thơ Lê Vĩnh Tài xuất phát từ mối quan tâm tự nhiên, thường trực
của tác giả với đời sống, trước hết là đời sống xung quanh ông, trên mảnh đất
Tây Nguyên, và rộng hơn, các sự kiện chính trị, xã hội - thời sự của Việt Nam
và thế giới. Đó là cuộc chiến
giữa các quốc gia, vấn đề toàn vẹn lãnh thổ, dịch bệnh toàn cầu, các biến cố
chính trị, xã hội của đất nước, dân tộc... Nhiều hơn nữa, là những chuyện hàng
ngày, mắt thấy tai nghe, đời sống mưu sinh vụn vặt, ngẫu nhiên của những con
người vô danh trên dải đất chữ S. Có điều, từ các sự việc, sự kiện thời sự
thoáng qua, nhanh chóng bị quên lãng, ông có thể phát hiện rất nhanh mối liên
hệ giữa chúng với thiết chế quyền lực ẩn sau đó. Nhiều sự kiện thời sự là khởi
nguồn của những tác phẩm có dung lượng lớn, đặt ra những vấn đề xã hội nóng,
với thái độ phản biện trực diện, những “bài trường ca”, như cách tác giả
gọi: Bài trường ca người Mông - 2012, Bài trường ca
Bauxite - 2013, Bài trường ca cho người đã chết nhưng vẫn còn
sống trong sự thật - 2014, Bài trường ca cánh đồng bất nhân -
2014, Bài trường ca Tây Tạng - 2015, Bài trường ca Sài
Gòn ngày phong tỏa - 2022, Bài trường ca Ukraine -
2022 [4] v.v. Hãy quan sát thêm FB
Lê Vĩnh Tài. Dòng thời gian của ông là sự trình hiện lần lượt nhiều sự kiện văn
hóa, chính trị, xã hội có thực, đã xảy ra gần đây ở Việt Nam và trên thế giới,
bao gồm cả các sự kiện ít hoặc không công khai trên các phương tiện
truyền thông đại chúng. Ví dụ, Biển kể về nhiều chuyện khác đăng
trên tienve.org, 2012, nói về sự kiện Hoàng Sa - Trường Sa (thời kì đầu, cuối
năm 2007); Bài trường ca Sài Gòn ngày phong tỏa, được chia làm 7
phần và post lần lượt theo thứ tự từ 1 đến 7 trên FB Lê Vĩnh Tài (phần 1 ngày
11/6/2022; phần 7 ngày 17/6/2022), nói về đại dịch Covid - 19, khởi nguồn từ
tháng 12/2019 từ thành phố Vũ Hán, Trung Quốc, sau đó lan ra toàn cầu, trong
hơn 2 năm, giết chết gần 15 triệu người [5]. Bên cạnh đó, nhiều tin tức đời sống và
văn học trên báo chí và mạng xã hội cũng trở thành nguồn cung và chất liệu thực
hành thơ của ông. Chẳng hạn chùm thơ Thử làm bài thơ mất gà (gồm
4 bài: Thử làm bài thơ mất gà, Tôi đã tìm thấy con gà giống như bạn tìm
thấy cơn mưa, Thử tiếp một bài thơ mất gà, Mẹ nói với con trai về kẻ trộm)
xuất phát từ sự việc thơ Tòng Văn Hân giành giải nhất cuộc thi thơ 2019 - 2020
của báo Văn Nghệ (tháng 4/2021), nguồn cơn gây ra một trận bão mạng tơi bời vào
thời điểm đó. Và còn nhiều, rất nhiều ví dụ khác. Gần như bất kì một sự vật, sự
việc nào rơi vào tầm ngắm của ông đều có khả năng trở thành “có chuyện”, thành
những vấn đề đáng nghĩ, cần nghĩ của thơ, về thơ. Và thực hành thơ, như
vậy, cũng là một hành động chính trị: bằng việc đưa các sự kiện thời sự vào
thơ, người viết thể hiện trực tiếp và trực diện thái độ, tư tưởng xã hội của
mình.
Tuy nhiên, dù nhiều sáng
tác của Lê Vĩnh Tài là sự phản ứng nhạy bén, tức thời trước nhiều sự kiện thời
sự - chính trị, nhưng thơ ông không phải là thơ thời sự hay hô hào chính trị.
Tâm thức chính trị giúp ông nhận ra sự kết nối tất yếu giữa mỗi cá nhân với
toàn bộ cộng đồng xã hội và biết đọc ra trong mỗi sự kiện thời sự “một câu
chuyện khác bị khuấy đảo trong nó” [6]. Ngoài ra, phản ứng tức thời với sự kiện,
với một hệ quy chiếu ở bề sâu, nhằm xác định bản chất hệ thống thiết chế quyền
lực chi phối các sự kiện bề mặt, nhưng ông luôn biết tự gián cách bằng thái độ
khôi hài, phi trầm trọng. Thay vì khái quát
hóa, biểu trưng hóa, ông lựa chọn cách trình hiện các vấn đề đời sống dưới dạng
thức của một dòng chảy cụ thể, tự nhiên và gần như vô tận. Nhìn trên bình diện
kết cấu, nó là cách “tái tạo sự hỗn độn của cuộc sống bằng sự hỗn độn nhân tạo”
(I.P. Ilin, E.A. Tzurganova).
Ở đây, có thể thấy vai trò
và sự trợ giúp hiệu quả của internet đối với hoạt động sáng tạo. Không chỉ đem
lại cho nghệ sĩ một nguồn vật liệu mới, vô tận, internet và CNTT đồng thời cung
cấp công cụ, phương tiện để xử lí vật liệu, sáng tạo sản phẩm nghệ thuật. Nó
giúp cá nhân vượt qua các rào cản lãnh thổ, địa lí, văn hóa, mở rộng nhãn quan,
thay đổi nhận thức, vượt qua những cấm kị (taboo), để thể hiện tư tưởng, chính
kiến. Mặt khác, cũng chỉ không gian mạng mới đủ khả năng dung chứa những sản
phẩm nghệ thuật đa phương thức, có dung lượng, tầm vóc ngoại
cỡ.
Giễu nhại là tính chất nổi
bật trong thơ Lê Vĩnh Tài. Nó được tạo nên bởi một thủ pháp có tính đặc thù -
giễu nhại.
Dù đã xuất hiện trong nhiều
loại hình thơ trước đó, giễu nhại (parody) là thủ pháp gắn liền với cảm quan
hậu hiện đại, với cái nhìn hoài nghi về tính tuyệt đối của các đại tự
sự. Theo Nguyễn Hưng Quốc, “dù nhìn từ góc
cạnh nào thì giễu nhại cũng có hai đặc điểm chính: nhại và giễu, tức bắt chước
và châm biếm. Nhại có nhiều phạm vi khác nhau: văn bản hay khung hình thức của
thể loại; trong văn bản, có nhiều cấp độ khác nhau: từ, câu, đoạn, hay toàn
văn. Châm biếm cũng có nhiều đối tượng khác nhau”[7]. Trong thơ Lê Vĩnh Tài, đối tượng
nhại khá phong phú: các hiện tượng đời sống xã hội, lịch sử, các hiện tượng văn
hóa, văn học, các ý thức tồn tại như những giá trị tuyệt đối, nhất thành bất
biến… Hình thức nhại cũng khá đa dạng: nhại ngôn ngữ, nhại tình huống, bối
cảnh, nhại sự việc, nhại giọng điệu, nhại phong cách…
Chẳng hạn, nhại ngôn ngữ:
thành công ngọt ngào nhất
đến từ những người sắp
thành công
một ông ngạo nghễ…
không phải ai cầm cờ hôm
nay
cũng có thể định nghĩa về
chiến thắng
khi bài thơ bị đánh bại
(Mười
sáu bài thơ về Covid)
corona từ đâu em tới?
bạn nhầm rồi, covid mới là
tên của tôi
không ca sĩ nào nổi tiếng
bằng tôi
(Bài
trường ca ngày Sài Gòn phong tỏa)
Nhại sự việc:
bạn từng rút kinh nghiệm
từng rút tiền
nhưng lần này bạn rút ống
thở
dù bạn không phải là bác
sĩ khoa [8]
(Bài
trường ca ngày Sài Gòn phong tỏa)
Nhại giọng điệu:
có cả núi đồi
lộn gió
lộng gió
có cái đó
muốn cho ai thì cho
có những cơn mưa bùn đỏ
không thể đem cho
nhưng người ta đang bàn
như không còn cách nào khác
ly cà phê lấm tấm
kí ức. không phải
tức
cũng không đau nhức
nó thành màu đen cho tới
lúc hiển hiện
vị đắng
thành một âm tiết của cổ
họng
rơi tong tong
(ly
cà phê banmê)
Để giễu nhại, Lê Vĩnh Tài
còn sử dụng các thủ pháp liên văn bản; cắt dán, lắp ghép... Các hình ảnh, đường
link, tin tức trên báo giấy, báo mạng, mạng xã hội… được cắt ghép và liên kết
với nhau, tạo thành những bộ phận hữu cơ trong tác phẩm, theo một logic khác
thường, làm bật lên tính hài hước. Như vậy, nhại là việc bắt chước, mô
phỏng đặc điểm của đối tượng trong sự liên hệ, đối chiếu cố ý ở bối cảnh mới,
qua đó thể hiện những nghĩa/ ý nghĩa khác, có tính mỉa mai, châm biếm. Tuy
nhiên, không phải lúc nào giễu nhại của Lê Vĩnh Tài cũng đem lại cảm giác bông
đùa nhẹ nhõm. Rất nhiều lần, nó đắng cay, mặn chát:
một nhà thơ không chịu
xếp ngang hàng với nhà thơ
đã chết
còn bài thơ
nó chỉ là giọt mưa
trong nó, có một cuộc chiến
tranh
có vườn cây cỏ mọc
có mặt trăng long lanh
có nước mắt những người
lính khi xông lên
như người mẹ đang chờ con
về trên cánh đồng khi gặt lúa
bài thơ giống như mẹ
không chia phe
nó có thể cười trong lễ
cưới
khóc trong phiên tòa ly hôn
vì sau đó nó chẳng còn gì
một không gian, một bầu
trời đầy mưa
và gió
kệ ai là nhà thơ
bài thơ ngủ, và khi thức
dậy
nó thấy những người lính đã
về nhà
cuộc chiến đã kết thúc
nguyễn bắc sơn đi hớt tóc
cạo râu
nguyễn đức sơn đi trồng
thông trên núi
cũng có người đi nhậu
hay trịnh cung bỏ đi tuốt
tận đâu đâu
chỉ những nhà thơ vô danh
thích cãi nhau
để làm cho ai giống như
hay khác với một nhà thơ
nào đó
làm sao có hai dấu vân tay
bài thơ, nó là bí ẩn của
từng người
nó có mùi của nhà thơ
ngay cả khi nhà thơ đã chết
và chúng ta nối tiếp sự
ngây thơ
không làm sao hiểu được
chính chúng ta...
Một nhà thơ
không chịu/ xếp ngang hàng với nhà thơ đã chết là một sự việc nhảm
nhí, hài hước, khơi dậy cảm hứng giễu nhại, đồng thời, là yếu tố, chất liệu để
nhại và giễu. Tuy nhiên, giống như rất nhiều bài thơ khác của Lê Vĩnh Tài, đó
chỉ là xuất phát điểm. Càng ngày ý tưởng thơ của ông càng được đẩy xa thêm với
những suy tư về người mẹ đang chờ con về trên cánh đồng, về cuộc
chiến đã kết thúc, về dấu vân tay thơ… Đó là những từ khóa
siêu liên kết với nhiều tầng bậc văn bản, ngữ nghĩa khác. Bên cạnh giọng giễu
nhại, đan xen giọng trữ tình, suy tư, nhiều khi nặng trĩu. Giọng thơ Lê Vĩnh
Tài hoàn toàn không đơn điệu, với nhiều cú tạt đầu, bỏ nhỏ bất ngờ.
Lê Vĩnh Tài viết nhiều về
thơ. Ông có nhiều tác phẩm dung lượng lớn, trực tiếp bàn về chủ đề này, chẳng hạn Làm
thơ (gồm 16 phần, 30260 chữ); Thờ ơ thơ (5940
chữ); Làm thế nào để đọc một bài thơ (569 chữ)… Nhiều chùm bài
tập trung vào chủ đề thơ, tên bài/ chùm gắn liền từ khóa “thơ”: Thơ
1,2,3,4… và ấy là một vỉa hè; Bài thơ về sự cả nể; Bài
thơ về quả táo; Bài thơ về mùa hạ; Bài thơ xanh phảng
phất; Bài thơ về cuộn len; Bài thơ về mùa hạ; Bài
thơ tả đám mây; Bài thơ của đêm; Bài thơ gửi đỉnh đồi; Bài
thơ buồn vì em đang buồn; Thơ ngày xưa không phải là những tiếng vỗ
tay… Ngoài ra, trong rất nhiều văn bản khác, dù nói về chủ đề gì, chúng
luôn được kết nối hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp với vấn đề thơ. Thơ thực sự là
yếu tố kết nối Lê Vĩnh Tài với toàn bộ phần còn lại của thế giới.
Tuy nhiên, khi viết về một đề
tài (vốn được xem là) cao nhã, thơ Lê Vĩnh Tài hoàn toàn thiếu vắng thái độ trang
trọng, đề cao thường gặp trong truyền thống. Không khó để nhận ra tinh thần hài
hước, giễu cợt của ông khi nói về thơ. Chẳng hạn trong chùm Thơ 1,2,3,4
và… ấy là một vỉa hè, thay vì “Nàng Thơ”, hoặc những mĩ từ tương tự, thơ/
bài thơ được gọi là “hắn”, và “hắn” có thể “không có chữ, không có dòng nào,
chỉ những ký hiệu @,%^&^J $$$ và được gọi là thơ cụ thể”, có thể
“quá trớn đã té nhào ra trang giấy, vỡ tung ra những tiếng kêu, khóc, chửi
bới, đau đớn... nhưng không thấy văng ra một chữ nào”, hoặc “muốn ngủ
nhưng không nằm xuống được vì cứ nằm xuống thì người ta lại dựng hắn dậy để
hoan hô…”. Thơ bị gọi bằng những cái tên xách mé, tầm thường, bị đặt trong
những tình thế trớ trêu, hài hước, phơi lộ toàn bộ sự lố bịch, đáng thương, ngớ
ngẩn. Từ trên bàn thờ trang trọng, thơ bị đẩy xuống vỉa hè, nhập cuộc với bụi bặm,
nhếch nhác, mọi xống áo mĩ từ bị đốt trụi.
Tương ứng với tâm thế, thái
độ tiếp cận ấy là giọng điệu trửng giỡn, cười cợt. Ngay cả khi nói về các tình
huống có tính thi vị hơn, cái nhìn hài hước cũng luôn phát hiện ra những khía
cạnh buồn cười, phản thi vị của nó, ví dụ:
trong suy nghĩ của đêm
có những sợi cỏ không màu
khâu hai mí mắt
nếu không người ta thấy hết
đêm ơi
mà có chuyện gì
cũng phải ngáp cái đã.
(Bài thơ của đêm)
chạm vào đêm im lặng
chạm vào em ấm nóng
ám ảnh tách đôi
chữ đau đớn
giữa hai tay...
...giữa hai chân tôi
cũng vậy thôi
(Bài
thơ về quả táo)
bạn cũng đừng tìm hiểu ý
nghĩa của các ẩn dụ
những bài thơ hay nhất tự
nó sẽ cười đùa ngay với bạn
nhưng đọc thơ cũng cần có
lòng dũng cảm
vì bạn sẽ phải nhảy từ vực
sâu này sang đỉnh núi cao vút bên kia
nếu thơ yêu cầu bạn đầu
hàng
thì bạn cứ nằm
chàng hảng
(Làm
thế nào để đọc một bài thơ)
Ở đây, hiện diện một thái
độ thái độ giải thiêng: tất cả đều có thể là thơ hoặc phi thơ, cũng thế, đâu có
gì trầm trọng! Thơ có thể là một trò đùa giỡn, một tiếng cười bông phèng, không
hơn. Nhà thơ bày trước mắt độc giả mọi món tin tức - thơ trên bàn không gian
mạng và mời người đọc vào cuộc, trước hết với tiếng cười. Thơ bị xuống giá, mất
giá, rớt giá thảm hại. Nhưng trong chính hành động trình diễn - thơ - rớt - giá
đó, nó nhắc ta nhớ về thái độ ứng xử thực sự với thơ, lâu nay, trên khắp các
diễn đàn chính thống, các giảng đường đại học, viện nghiên cứu, phải chăng thơ
đã được nhìn nhận đúng với bản chất, với thái độ coi trọng, như nó xứng đáng
có?
Nói về thơ theo cách “phản
thơ”, Lê Vĩnh Tài bộc lộ sự hoài nghi về những quan niệm đóng vai trò “chân lí
tuyệt đối” trong đời sống văn học bấy lâu, bất chấp tình trạng chết lâm sàng
của nó. Làm thế nào để đọc một bài thơ… là văn bản thể hiện tập
trung tinh thần hoài nghi đó. Tác giả chia nội dung bài (chùm thơ) này
thành hai phần. Ta tạm gọi phần 1 là phần hướng dẫn lí thuyết, với tiêu đề dưới
dạng một câu hỏi tu từ giàu sức gợi dẫn (hoặc cũng có thể hiểu như một lời cảm
thán, do kết thúc không phải dấu hỏi mà là dấu ba chấm) - Làm thế nào
để đọc một bài thơ… Phần 2 là phần dành để thực hành - Một ví dụ để
bạn thực hành. Tuy nhiên, sự thật là tác giả đâu có ý định “chỉ đường”
theo kiểu độc giả thật thà đòi hỏi. Làm thế nào để đọc một bài thơ...,
xét từ cách thức trình bày đi từ định hướng lí thuyết đến thực hành đọc thơ,
thực chất, là sự giễu nhại lối đọc/ phê bình thơ trường quy có tính phổ quát,
phổ biến. Bài thơ là nhại (bao gồm nhại phong cách phê bình,
nhại mô hình phê bình, nhại diễn ngôn, giọng điệu phê bình, nhại thao tác, kĩ
thuật phê bình…), và cùng với nhại là giễu. Ông giễu cợt cái
nhìn thiêng hóa, thần thánh hóa bản chất của hoạt động làm thơ, làm nghệ thuật.
Đồng thời, ông giễu cợt cả lối viết lẫn lối đọc một chiều, suy diễn, áp đặt
thường gặp trong cộng đồng diễn giải.
Chất liệu để làm nên thơ
của Lê Vĩnh Tài cũng từ chối sự tinh hoa, đặc tuyển. Để làm nên thơ, nó có thể
là bất cứ thứ gì! Hãy quan sát các sáng tác gần đây nhất trên FB cá nhân
của ông. Chiến tranh, dịch bệnh, tin tức trên báo in hoặc báo mạng, chuyện vợ
chồng ngoại tình, phát ngôn ngớ ngẩn của quan chức, cuộc đấu khẩu giữa hai nhà
sư, một chính sách xã hội tệ hại, status nực cười trên FB một nhà văn, tấm ảnh
chụp biển báo đường hay xảy ra tai nạn bên cạnh cửa hàng bán quan tài... tất
cả, qua con mắt của ông, đều trở thành những vật liệu “đầu vào” của thơ. Chúng
được đặt trong quan hệ với thơ, được “độ hàng", thành những bài thơ đầy hài
hước. Ngoài các đơn vị bài/ chùm bài được trình theo hình thức các khối chữ,
tương đối quen thuộc, một số đơn vị “bài thơ” của ông có hình thức rất khác
biệt so với thông thường. Mỗi bài thơ là một văn bản đa phương thức, ở đó, phần
chữ (có khi rất ít, chỉ vài chữ, như văn xuôi, thậm chí, như lời nói thường,
hoàn toàn thiếu du dương, vần vè…), được kết nối với các hình ảnh, bản tin cắt
từ tin tức trên báo in, báo mạng…
Sau đây là một vài ví dụ:
Nhà thơ cách tân đi thi lục bát |
Hai bài thơ |
Thơ và phê bình |
Nhà thơ và thơ |
Một khi quan niệm FB là sân
chơi, hẳn ta sẽ vô cùng thú vị vì khả năng phát hiện đầy bất ngờ và hài hước
của tác giả về mối quan hệ giữa thơ với các yếu tố phi thơ nói trên. Tuy nhiên,
nếu gọi chúng là thơ, đây thực sự là cả một vấn đề với nhiều độc giả. Đây mà là
thơ ư? Vậy thì thế nào mới là thơ? Đâu là giới hạn của cái gọi
là thơ và không/ phi thơ? Có thể có nhiều loại thơ khác nhau không? Khác có
đồng nghĩa với hay, giá trị?... Hàng loạt câu hỏi về bản thể
và khả thể của thơ lập tức xuất hiện, khơi dậy những tranh luận trái chiều,
cũng là khởi sự cho việc nhận thức và nhận thức lại. Bằng giễu nhại, tác giả
phản tỉnh và bóc trần tính hình thức của sự vật, sự việc, đặt ra câu hỏi nghi
ngờ về bản chất cũng như sự tồn tại chính đáng của chúng. Những văn bản đa
phương thức này có hai tác dụng: tạo nên tiếng cười châm biếm xã hội, đồng
thời, bằng chính sự tồn tại giễu nhại, chúng tạo nên một sự gai chướng, một sự
gây hấn, từ đó, gieo nghi ngờ về về những ý nghĩa, giá trị vẫn được xem là tất
yếu của thơ, thúc đẩy một sự phá hoại cần thiết, để thay đổi, mở rộng ý niệm về
thơ và nhiều giá trị tinh thần khác.
Cũng cần nói thêm, sự
"nghi ngờ" hay "phá hoại" này không nhằm đối lập hay
chống lại thơ in giấy, nó chỉ chống lại tham vọng thiết chế hóa, quy phạm hóa ở
thơ in giấy (thơ truyền thống). Nó gợi ý, đòi hỏi (và trên thực tế là đã) mở
thêm những khả năng, phương thức tồn tại, giao tiếp mới cho thơ. Thơ Lê
Vĩnh Tài không thiếu những bài/ phần/ câu hoàn toàn đáp ứng nhu cầu gợi cảm/ hàm súc/ độc sáng của độc giả truyền thống. Một mặt, nó cho
thấy khả năng đa dạng của ngòi bút, mặt khác, nó là minh chứng cho tính chất
dung hợp loại hình trong thơ Lê Vĩnh Tài. Trên thực tế, thơ truyền thống, như
một loại vật liệu, đã được ông xử lí lại từ nhãn quan hậu hiện đại.
Hãy quan sát ví dụ sau đây:
Bài thơ về cuộn len
1. cuộn
len rối tung một mê cung trong
giấc ngủ tôi thấy cuộn len lăn như cỏ sự
bện chéo vào nhau sợi dọc sợi ngang như
sợi rơm chú chim sâu đan chiếc tổ sau
đó đẻ những quả trứng như
hợp nhất trời và đất của
đàn bà và đàn ông uống
và không khát một
hối tiếc một
nước mắt… một
ẩn dụ được
người đàn bà se lại như sợi chỉ và
đan 2. (viết
lại bằng lục bát) cuộn
len xanh cọng cỏ non lăn
trong bao ánh sáng vàng và nâu cuộn
len như chú chim sâu cho
người lích chích một màu lông tơ đan
thành chiếc tổ bé thơ oa
oa quả trứng bất ngờ thất thanh một
hối tiếc một long lanh sớm
ngày đã rối tung thành đêm đen một
người rách áo rồi em một
người lại giấu cuộn len đâu rồi |
Thay đổi hình thức của bài thơ sẽ thay đổi tinh thần, tư tưởng và cả thi tính của nó. Thực tế là ta đang đứng trước hai bài thơ về cuộn len chứ không phải một. Việc đánh giá là của độc giả. Nghệ sĩ thì sáng tạo. Ý nghĩa của hành động sáng tạo không chỉ nằm trong sản phẩm đã hoàn tất, được đưa đến trọn vẹn cho độc giả - nó nằm trong chính quá trình thực hành sáng tạo. Việc Lê Vĩnh Tài viết lại bài thơ bằng thể lục bát là một trò chơi có chủ ý. Nó nhằm chứng minh một trình độ “làm thơ” điệu nghệ, tài tình (và sự chứng tỏ kĩ thuật “tài khéo” ấy đương nhiên đi cùng với một nụ cười không ít tinh quái). Nhưng khi đọc Bài thơ về cuộn len, được viết lại ở thể lục bát, ta buộc phải đặt nó trong sự đối sánh với Bài thơ về cuộn len ở thể tự do trước đó. Hành động ấy nhắc nhở về những khả thể tồn tại khác nhau của tác phẩm và việc cần thiết phải có một quan niệm mở khi tiếp nhận nghệ thuật. Bản thân văn bản thể lục bát, giờ đây, cũng không tồn tại như một tác phẩm đơn lẻ, độc sáng, nó được đặt trong mối quan hệ đối sánh hiển nhiên với văn bản thể tự do, sự liên văn bản làm nẩy sinh các lớp nghĩa và cách đánh giá mới. Vật liệu truyền thống đã được xử lí lại, đã thành một sản phẩm nghệ thuật mới và khác. Đương nhiên, trong bối cảnh tạo nghĩa đó, làm sao độc giả còn có thể đọc một cách hồn nhiên, khi mà “sự ngây thơ bị đánh mất” (Umberto Eco)?
Khá gần gũi các nghệ sĩ như
Lí Đợi, Bùi Chát, hay Inrasara, Đặng Thân… ở tinh thần giải đại tự
sự và thủ pháp giễu nhại, tuy nhiên, Lê Vĩnh Tài vẫn khác trong việc lựa chọn
vật liệu và thái độ thể hiện. Chẳng hạn, nếu Lý Đợi, Bùi Chát phản kháng truyền
thống theo cách nhại và nhạo gay gắt, với tinh thần “chúng tôi không làm thơ”,
“nghịch thơ chứ không làm thơ” và bằng thứ ngôn ngữ vỉa hè “nhảm nhí, cố tình
nhảm nhí hơn” (Inrasara) thì Lê Vĩnh Tài luôn quan sát các hiện tượng đời sống
và thơ bằng con mắt giễu nhại tinh quái nhưng với thái độ khá ôn hòa. Ông chú ý
đến tương quan hài hước giữa vật liệu (ngôn ngữ, hình ảnh đời sống) được sử
dụng với sản phẩm chế tác ("thơ", "bài thơ") hơn là việc
lựa chọn các vật liệu ngôn ngữ gây sốc. Sự giễu nhại ở ông thường có tính khôi
hài hơn là gay gắt, chát chúa, dẫu đằng sau luôn là cái nhìn phản biện sắc
sảo.
3. Có thể nói, thơ Lê Vĩnh
Tài là một tiếng nói dòng “văn học thiểu số” (theo cách nói của Gilles
Deleuze và Feslix Guattari [9]) đang ngày càng “lớn tiếng” hơn
trong văn học dòng chính. Trên thực tế, không gian mạng đã kích hoạt và
giúp phát triển tối đa nguồn năng lượng sáng tạo của ông. Không chỉ hỗ trợ về
phương diện công cụ kĩ thuật, không gian mạng cũng chính là điều kiện, bối cảnh
tạo nên tâm thức hậu hiện đại ở ông. Chối từ một sự định hình, đóng kín, chối
từ tham vọng khái quát hóa, tổng kết, đóng dấu hoàn tất lên một sự nghiệp, thơ
ông đang vận động, với năng lượng dồi dào một cách đáng kinh ngạc.
Thơ mạng Lê Vĩnh Tài tồn
tại trong một bối cảnh hoàn toàn khác với thơ in giấy truyền thống. Đọc thơ
mạng Lê Vĩnh Tài, do đó, không thể chỉ dừng lại ở các đơn vị bài riêng lẻ, mà
cần đọc trong phối cảnh tổng thể văn hóa, xã hội, nơi nó nẩy sinh, tồn tại, tức
“những cảnh sống” (live scenes) gắn liền với các yếu tố thời sự, chính trị, văn
hóa cụ thể. Trong bối cảnh và diễn biến văn hóa đó, độc giả mới có thể tham gia
tích cực, trọn vẹn vào quá trình tạo nghĩa văn bản [10]. Đừng đòi hỏi ở Lê Vĩnh Tài một tác phẩm
thơ “trọn vẹn”, “giàu cảm xúc”, “nên thơ” (mặc dù ông thừa khả năng để làm điều
này, Bài thơ về cuộn len nói trên là một minh chứng), bởi ta đang đối diện với một thực thể đang sinh thành, vận động - một ý
niệm thơ mới. Làm thơ, với Lê Vĩnh Tài, không chỉ để bày tỏ cảm xúc cá nhân
hoặc tạo nên một sản phẩm toàn thiện mà còn là hoạt động chất vấn bản chất và ý
nghĩa của sự viết. Viết là hành động để tạo nên hình dung và quan niệm về quá
trình hình thành một sản phẩm sáng tạo. Từ góc độ này, có thể nói, đọc thơ Lê
Vĩnh Tài thực chất là đọc thơ về sự viết và bằng/ qua hành động viết. Việc
đọc thơ, do đó, là một thỏa thuận hiểu biết giữa người viết và người đọc. Một
cuộc chơi có nguyên tắc.
Tất nhiên, thơ mạng nói
chung, thơ Lê Vĩnh Tài nói riêng, cũng đang bị đặt trước nhiều thách thức. Tồn
tại trong một hệ sinh thái truyền thông rộng lớn, thơ mạng nhanh chóng xuất
hiện nhưng cũng nhanh chóng bị lãng quên trong tiếng ồn trên mạng. Mặt khác,
việc công bố sáng tác trên mạng, cụ thể trên FB, cũng có hạn chế: cùng với sự
tự do, nó đồng thời đối mặt với sự phụ thuộc công nghệ, vấn đề xác tín văn bản,
sự tồn tại phân tán, thiếu ổn định, tình trạng dễ dãi, trùng lặp… Sáng tạo trên
mạng là một cuộc chơi, ở đó, sản phẩm nhanh chóng vượt khỏi tầm đón nhận của
độc giả, đã đành, nó còn vuột nhanh hơn thế, khỏi sự kiểm soát của tác
giả.
Thơ mạng là một lựa
chọn sáng tạo theo hướng nhập cuộc với thế giới của Lê Vĩnh Tài trong bối cảnh
đương đại. Quan sát thơ mạng Lê Vĩnh Tài trong cường độ, tốc độ của nó, tôi
đồng thời ý thức về phạm vi, giới hạn mô tả: một lát cắt phác thảo trên dòng
vận động liên tục và nhanh chóng bị vượt qua.
Vinh,
ngày 11/5/2022
L.H.Q
[1] Nội dung phần này được tổng hợp từ các công trình,
bài viết của Trần Khánh Thành, Trần Ngọc Hiếu, Inrasara, Nguyễn Thanh Tâm…
[2]. [3] I.P. Ilin và E.A.Tzurganova
(2003), Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn
học ở Tây Âu và Hoa Kì thế kỉ 20, Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên
Ân dịch, Nxb Đại học Quốc gia, 426-433.
[4] Về các sự kiện chính trị - xã hội được
đề cập trong các sáng tác của Lê Vĩnh Tài, xin tra cứu Google để biết thêm.
[5] Theo tổ chức WHO.
[6] Gilles Deleuze, Félix Guattari (2013), Kafka,
Vì một nền văn học thiểu số, Nguyễn Thị Từ Huy dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu
đính, Nxb Tri thức, tr.67.
[7] Nguyễn Hưng Quốc, giễu nhại như
một ý niệm, http://www.tienve.org/home/music/viewMusic.do;jsessionid=00D70FD504F21EA527E8A429854A01D1?action=viewArtwork&artworkId=3438
[8] Tất cả những chi tiết in nghiêng đậm trong các đoạn
thơ này nhắc lại các sự việc có thật trong thực tế đời sống Việt Nam, trong
khoảng từ tháng 1/2020 - 2022, khi dịch bệnh Covid hoành hành.
[9] Gilles Deleuze, Félix Guattari (2013), Kafka,
Vì một nền văn học thiểu số, Nguyễn Thị Từ Huy dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu
đính, Nxb Tri thức, tr.65.
[10] Heather Wood (2015), "Poetry for People?
Modern Chinese Poetry in the Age of the Internet", Chinese
Literature Today, Vol 5 No.1, p.44-54.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
1. Nguyễn Đăng Điệp (chủ biên), Văn học đại chúng trong bối cảnh
văn hóa Việt Nam đương đại, Nxb Khoa học Hà Nội.
2.
2. Gilles Deleuze, Félix Guattari (2013), Kafka, Vì một nền văn
học thiểu số, Nguyễn Thị Từ Huy dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính, Nxb Tri
thức.
3.
3. Trần Ngọc Hiếu (2020) “Internet và cộng đồng tưởng tượng của thơ ca:
Một khảo sát về thơ mạng Việt Ngữ những năm đầu thế kỉ XXI”, https://hieutn1979.wordpress.com/2020/01/13/tran-ngoc-hieu-internet-va-cong-dong-tuong-tuong-cua-tho-ca-mot-khao-sat-ve-tho-mang-viet-ngu-nhung-nam-dau-the-ky-xxi/
4.
4. Inrasara (2008), “Văn chương mạng”, Song thoại với cái mới,
Nxb Hội Nhà văn.
5.
5. Nguyễn Thanh Tâm (2017), “Phác thảo loại hình thơ mạng ở Việt Nam”, Tạp
chí Nghiên cứu văn học (9).
6.
6. Trần Khánh Thành (chủ biên), Lê Trà My, Trần Ngọc Hiếu (2021), Văn
học mạng Việt Nam, xu hướng sáng tạo và tiếp nhận, tái bản lần thứ nhất,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. 7. Nguyễn Hưng
Quốc, giễu nhại như một ý niệm, http://www.tienve.org/home/music/viewMusic.do;jsessionid=00D70FD504F21EA527E8A429854A01D1?action=viewArtwork&artworkId=3438
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét