MỘT NÉT ĐẸP CẦN KHAI THÁC
KHI DẠY HỌC THƠ HUY CẬN TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
Lê Hồ Quang
1. Nói về thơ Huy Cận, trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã nhận
xét: “Có người sẽ bảo thơ Huy Cận già. Già vì buồn, già vì hay kể lể những chuyện
xưa. Nhưng trong đời người ta có tuổi nào hay buồn hơn tuổi hai mươi. Còn có tuổi
nào hay vẩn vơ hơn. Tôi thấy thơ Huy Cận trẻ lắm” [7;128]. Nhận xét ấy thực chính
xác, nó chỉ rõ điểm cốt yếu của tiếng thơ Huy Cận - ấy là tiếng thơ của một con
người “trẻ tuổi và nhất là trẻ lòng”[1].
Ta cũng có thể diễn đạt sự “trẻ lắm” ấy theo cách khác, đó là tươi mới trong
xúc cảm và hiện đại trong thi pháp. Sự xác lập vị trí nhanh chóng và vững bền của
Huy Cận trong phong trào Thơ mới chắc chắn xuất phát từ chính sự trẻ trung, hiện
đại này.
Nhưng theo quan sát cá nhân tôi, ở
trường phổ thông, khi nói đến thơ Huy Cận ở giai đoạn trước
Cách mạng tháng Tám, cụ thể là trong tập Lửa
thiêng, người ta thường quan tâm chú ý và đề cao phần “già” (nỗi sầu nhân
thế - vũ trụ, vẻ đẹp cổ điển, tính chất tượng trưng, phổ quát…) hơn là phần “trẻ”
(sự mới mẻ, hiện đại, thanh tân)[2]. Điều
này càng được nhấn mạnh khi trong chương trình Ngữ văn THPT hiện hành, Huy Cận
được dạy học cùng (và thường được đặt trong mối liên hệ so sánh, đối chiếu) với
Xuân Diệu, người bạn thơ thân thiết của ông, cũng là một tác gia hàng đầu thời Thơ
mới. Đành rằng, việc định danh thơ Huy Cận thời Lửa thiêng bằng các định ngữ như “hàm súc, giàu suy tưởng, triết
lý”, “cái tôi cô đơn trước thiên nhiên”, “vẻ đẹp cổ điển”, “họa điệu giữa hồn
người và tạo vật”, “lòng yêu nước thầm kín thiết tha”, “sầu nhân thế” [3] là
hoàn toàn đúng (và những đặc điểm này thể hiện rất rõ qua Tràng giang, bài thơ được chọn dạy học trong chương trình Ngữ văn
THPT hiện hành). Nhưng thơ Huy Cận thời kỳ này không chỉ có vậy. Nhiều bài
trong Lửa thiêng rất tươi mới và giàu
xúc cảm cá thể, chỉ có điều chưa đến được với rộng rãi bạn đọc. Điều này khiến nhiều
độc giả trẻ trong nhà trường thường có ấn tượng không đầy đủ, nếu không nói là
khá phiến diện về thơ Huy Cận. Do đó, họ chủ yếu đọc/ nghĩ về ông như một tác
giả thơ tuy giàu triết lý, có vẻ đẹp cổ điển và tao nhã nhưng khá xa cách với
tuổi trẻ.
Vì những lẽ trên, tôi nghĩ cần phải nói về nét đẹp thanh xuân, tươi mới trong Lửa thiêng của Huy Cận, để bổ sung và khẳng định về những phẩm tính thẩm mĩ trong thơ tác giả này. Và cũng để nhấn mạnh một điều: Huy Cận không chỉ là một nhà Thơ mới giàu tính cổ điển, ông cũng thực sự là nhà thơ của tuổi trẻ và tình yêu.
2. Như phần lớn các tác giả Thơ
mới, Huy Cận viết Lửa thiêng khi tuổi
đời còn rất trẻ. Nhãn quan thơ của Huy Cận là nhãn quan của một con người trẻ
tuổi, tài hoa và nhạy cảm. Nhãn quan này chi phối trên nhiều phương diện thơ
ông, từ hình tượng cái tôi, đến không gian, thời gian được mô tả, tái hiện. Trong
Thơ mới, có lẽ Huy Cận là người viết nhiều nhất về cái trẻ - tươi - non của tuổi hoa niên trong đời người.
Bởi vậy, cũng thật
dễ hiểu khi cái tôi trữ tình trong thơ ông được khắc họa chủ yếu qua phương diện
tâm hồn, tấm lòng (nghĩa là phương diện
tinh thần, xúc cảm), mà lại là lòng mới nở,
lòng mới mẻ, lòng trai thơm ngát, lòng trai mở cánh yêu, lòng hoan lạc, lòng mê
say, lòng non dại… Mơ, mộng, do
đó, trở thành một dấu hiệu thẩm mỹ nổi bật để nhận diện chân dung đích thực của
cái tôi này: Yêu giữa đời mà hồn ở trong mơ/ Tình rộng quá, đời không biên giới
nữa (Tình tự); Dịu dàng áo trắng
trong như suối/ Tỏa phất đôi hồn cánh mộng
bay (Áo trắng); Bàn tay vơ vẩn đưa trang sách/ Mộng tưởng phiêu lưu bức địa đồ (Học
sinh); Lòng anh mở với quạt này/ Trăm con chim mộng về bay đầu giường (Ngậm ngùi); Tương tư hướng lạc, phương mờ/
Trở nghiêng gối mộng hững hờ nằm
nghe (Buồn đêm mưa); Mà nếu không yêu mà thừa yêu mến/ Cứ thả mộng cho lòng tôi ghé bến (Cầu khẩn)… Hình
ảnh “Chàng trai gối mộng trên trang sách”, do đó, có thể xem là một hình ảnh mô tả
đời sống học sinh giàu thi tính của Huy Cận, đồng thời cũng gợi ra một bối cảnh
học đường hiện đại, đã rất khác so với thời trước đó.
Không gian của của
tuổi hoa niên trong thơ Huy Cận, bị chi phối bởi nhãn quan lãng mạn, nhất định
phải là không gian của hương thơm và sắc màu. Có sắc màu thực: “Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương”;
Có màu sắc mộng ảo: Áo trắng đơn sơ mộng
trắng trong. Và rộng hơn, mộng và thực giao hòa trong “màu tươi” sự sống: “Bắt gặp màu tươi lên rún rẩy/ Trong cành hoa
trẻ cổ chim non”. Và hương thơm. Rất nhiều hương thơm. Là hương thực, của “Luống đất thơm hương mùa mới dậy”, của “hoa lá nở chuông rền giọng thắm”; của
“xuân trải lụa muôn tờ lá non”, của “lá thơm như thể da người, lá thơm”… Nhưng
hương thơm ấy, xét đến cùng, cũng là hương lòng, hương tình, khởi tỏa từ trong
những hồn thanh tân: “Thơm tho quá, lòng
ơi, vườn mới xới”. Từ những chi tiết, hình ảnh cụ thể, tươi tắn, nhà thơ đã
đẩy tới sự hình dung bao quát về Đời như một “cõi biếc” ở đó, Thơ, Nhạc, Cái Đẹp,
Tình yêu quyện vào nhau, khăng khít không rời: Chở hồn lên tận chơi vơi/ Trăm chèo của Nhạc muôn lời của Thơ (Trông
lên).
3. Với Huy Cận, vẻ đẹp thanh xuân của
con người tập trung ở lứa tuổi hoa niên. Không gian của lứa tuổi ấy là không
gian học đường, của sách vở, sân trường, ngói nâu, tường trắng, cửa gương với
tiếng học bài và những rung động dịu nhẹ, trắng trong, thầm kín thuở đầu đời.
Tựu
trường là một bài thơ xuất sắc
của Huy Cận về đề tài tuổi học trò. Ngôn ngữ thơ tự nhiên, trong trẻo, diễn tả
trọn vẹn cái cảm giác “giờ nao nức của
một thời trẻ dại”. Không cầu kỳ, trau chuốt “dụng chữ”, Tựu trường tự nó có những điểm rất khác
biệt với Tràng giang, Ngậm ngùi, Vạn lý
tình, Đẹp xưa..., nghĩa là những bài đạt đến độ điêu luyện cổ điển, vốn
được xem là tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận từ trước đến nay. Tựu trường là một bản hòa sắc giản đơn
mà rực rỡ giữa “linh hồn bằng ngọc”
của “những chàng trai mười lăm tuổi”
và những sắc màu nguyên bản của không gian: “quần
áo trắng”, “ngói nâu, tường trắng”. Cả một hệ thống tính từ dày đặc được
huy động để diễn tả cái nao nức, non tơ, trong trẻo trong những rung động tâm
hồn: nao nức, trẻ dại, non dại, mới mẻ,
ngập ngừng, run run, rụt rè, ấm áp, xôn xao, tin cậy, thơm ngát... Cảm giác
về sự tươi mới, thanh tân xuyên suốt Tựu
trường:
- Quần
áo trắng đẹp như lòng mới mẻ
- Lòng
mới nở giữa tay đời ấm áp
- Đêm
tựu trường mùi cửa sổ mới sơn
Tủ mới đánh và lòng trai thơm ngát
Vật dụng học trò được mô
tả trong Tựu trường rất thú vị, nhưng
tôi đặc biệt ấn tượng với hình ảnh chiếc “rương
nhỏ nhỏ”. Là một bài thơ mang đậm tính lãng mạn, nhưng chi tiết chiếc rương
này lại rất hiện thực. Nó gợi dậy những ký ức học trò, những ngày trọ học, đánh
dấu bước tự lập đầu tiên của tuổi thiếu niên. Cái rương, do vậy, không chỉ cất
giữ vật dụng sinh hoạt cá nhân, nó cất giữ cả linh hồn thời hoa mộng với biết
bao nỗi xôn xao thầm lặng ở trong rương.
Cái hay của bài thơ này, dẫu vậy, không nằm trong những câu thơ lẻ, hay những
chi tiết ấn tượng mà nằm trong “trường không khí” “nao nức” “xôn xao” của buổi tựu trường, cũng là của tuổi học sinh
thần tiên, mà nhà thơ đã biến thành không gian của cõi “Đào viên”.
Cũng chính ở Tựu trường, tiếng lòng “trẻ dại” ấy đã được chuyển tải bằng một
bút pháp mới mẻ mà vẫn hết sức tự nhiên. Bài thơ mở đầu có vẻ đột ngột bằng một
câu cảm thán: Giờ nao nức của một thời
trẻ dại! Tiếp đó là lời kêu gọi cũng xao xuyến, bồi hồi không kém: Hỡi ngói nâu, tường trắng, cửa gương!
Phá bỏ sự ngay ngắn, đối xứng, nhịp nhàng, những câu thơ không ngắt dòng theo
khuôn khổ định sẵn mà ngắt theo nhịp nói, cũng là nhịp lòng cần thổ lộ, giãi
bày, tạo nên sự “vắt dòng” hồn nhiên, tươi tắn:
Những
chàng trai mười lăm tuổi vào trường
Rương
nhỏ nhỏ với linh hồn bằng ngọc
Sắp
hạnh phúc như chương trình lớp học
Buổi chiều
đầu họ tìm bạn kết duyên
Trong
sân trường tưởng dạo giữa Đào viên
Rõ ràng, đây là một thứ ngôn ngữ, hình ảnh khá
“mộc”, rất khác với thứ ngôn ngữ, hình ảnh trong những bài thơ như Tràng giang, Đẹp xưa... đã nhắc đến ở
trên. Nhưng tôi lại thấy thú vị chính ở những “câu thơ điệu nói” này. Nó cho thấy một Huy Cận trẻ trung “đúng tuổi”,
“đúng giọng”. Nó cũng cho thấy nét đẹp mộc mạc tươi trẻ của hồn người.
Một nghịch lý là dù khi
bắt đầu sáng tác, các tác giả Thơ mới phần lớn đều ở tuổi hoa niên, song mảng
thơ nói về đề tài học trò trong Thơ mới không nhiều. Ngoài Huy Cận và Xuân Diệu,
ta có thể tìm thấy thêm một số ít bài như Quyển
vở nháp, Chủ nhật, Những ngày nghỉ học, Trường xưa của Tế Hanh, Nghỉ hè của Xuân Tâm... Về đề tài này, những bài đáng chú ý của Xuân
Diệu là Giới thiệu, Trò chuyện với thơ
thơ, Lưu học sinh... Tuy nhiên, tuổi học trò dường như không phải đích
chính trong cảm hứng thơ Xuân Diệu, ông quan tâm đến những tình cảm luyến ái
đắm đuối hơn là vẻ đẹp tự thân của tuổi học trò. Huy Cận thì khác. Tuổi học trò
với ông dường như mang chứa một thứ ánh sáng và niềm vui đặc biệt khác lạ. Đời
học sinh, trong mắt ông, được mô tả với rất nhiều tâm tình trìu mến. Và trong
những tâm tư bẽn lẽn của tuổi học trò, ông nhìn thấy ở đó vẻ đẹp ban sơ, trinh
bạch trong tâm hồn con người và đời sống vũ trụ, lúc khởi thủy. Dù số lượng
không nhiều, song những bài thơ viết về tuổi học trò của ông luôn toát lên vẻ
đẹp và sức sống riêng.
Đương nhiên, khi nói về
tuổi thanh xuân, nói về tiếng lòng “mới
nở”, không thể không nói đến đề tài tình yêu lứa đôi. Tôi muốn dùng chính
tên một bài thơ của Huy Cận - Áo
trắng, để khái quát về chủ đề tình yêu trong thơ ông thời Lửa thiêng, một tình yêu đơn sơ, trắng
trong, gắn liền những “xôn xao thầm lặng” của “thời trẻ dại”.
Tình yêu đầu đời ấy đã được diễn tả hết sức tinh tế trong nhiều bài thơ,
tiêu biểu là Áo trắng:
Áo
trắng đơn sơ, mộng trắng trong
Hôm
xưa em đến, mắt như lòng,
Nở
bừng ánh sáng. Em đi đến,
Gót
ngọc dồn hương, bước tỏa hồng
Em đẹp
bàn tay ngón ngón thon;
Em
xinh đôi má nắng hoe tròn,
Em lùa
gió biếc vào trong tóc
Thổi
lại phòng anh cả núi non.
Em
nói, anh nghe tiếng lẫn lời
Hồn em
anh thở ở trong hơi.
Nắng
thơ dệt sáng trên tà áo,
Lá nhỏ
mừng vui phất cửa ngoài.
Đôi
lứa thần tiên suốt một ngày,
Em ban
hạnh phúc chứa đầy tay.
Dịu
dàng áo trắng trong như suối
Tỏa
phất đôi hồn cánh mộng bay.
(Áo trắng)
Nếu trong thơ Hàn Mặc Tử, hình ảnh áo
trắng gợi nên biết bao cách biệt và nỗi xót xa (Áo em trắng quá,
nhìn không ra), thì trong thơ Huy Cận, nó đã trở thành biểu tượng cho sự
gặp gỡ và hòa hợp (Dịu dàng áo trắng trong như suối - Tỏa phất đôi hồn cánh
mộng bay). Nếu với Hàn Mặc Tử, Em chỉ đến trong mộng, thì với Huy Cận, Em
đã đến trong đời. Nhưng sự xuất hiện của Em luôn được tác giả “mộng hóa”.
Ông đồng nhất Em với Áo trắng. Áo trắng trở thành một biểu
tượng trùng khít với Em, với sự đơn sơ và trong trắng của tâm hồn. Ông
còn siêu nhiên hóa sự xuất hiện của Em bằng một loạt ẩn dụ:
Nở bừng ánh sáng, gót ngọc dồn hương, bước tỏa hồng; khiến Em hiện ra
với tư thế thánh nữ: Em
ban hạnh phúc chứa đầy tay. Và ông còn đặt Em trong độ lùi thời gian,
nhằm tạo ra độ mờ nhòe cần thiết cho hình tượng: Hôm
xưa em đến... Cách mô tả vẻ đẹp thể chất của con người ở đây nhằm gây
ấn tượng về sự hoàn mĩ, chứ không nhằm khêu gợi những rung động nhục thể. Chính
vì vậy, dù có nhắc đến những môtíp như tay, má, môi, ngực... nhưng
Huy Cận luôn trung thành với cái ngưỡng cảm xúc thẩm mĩ của mình. Hoặc ông chọn
những thi liệu ít nhiều đã quen thuộc trong thơ xưa, gợi nhiều ý nghĩa tượng
trưng, ước lệ (đôi mắt, nụ cười) hoặc sử dụng những cách diễn tả riêng nhằm mục
đích “tinh thần hóa” vẻ đẹp vật chất của con người.
Sự đồng nhất hồn người
với những trạng thái tinh thần như “mới mẻ”, “trong trắng”, “thơm ngát”...
cũng sẽ tạo nên một đặc tính trong thơ tình Huy Cận: trong sáng, nên thơ và
thiên về những trạng thái rung động nhẹ nhàng của tâm hồn. Điều này ta cũng
thấy trong những câu thơ tình rất đẹp của ông thuở thiếu thời:
- Vậy
đó bỗng nhiên mà họ lớn
Tuổi
hai mươi đến, có ai ngờ
Một hôm
trận gió tình yêu lại
Đứng
ngẩn trông vời áo tiểu thơ
(Học sinh)
- Có
chàng ngơ ngác tựa gà trống
E đến
trăm năm còn trẻ thơ
Tám
tuổi một chiều trong rạp xiếc
Yên
nàng cưỡi ngựa uốn thân tơ
(Rạp xiếc)
- Ôi nắng
vàng sao mà nhớ nhung
Có ai
đàn lẻ để tơ chùng
Có ai
tiễn biệt nơi xa ấy
Xui
bước chân đây cũng ngại ngùng
(Nhớ hờ)
Rõ ràng, đấy là một nhãn
quan tình yêu tuổi thiếu thời rất khác với Xuân Diệu, hay Hàn Mặc Tử hay Vũ
Hoàng Chương, Nguyễn Bính... của thời Thơ mới. Và cũng rất khác với thơ Nguyên
Sa hay Nguyễn Tất Nhiên về sau này. Nhưng sự nhạy cảm cá nhân còn dẫn Huy Cận đi sâu hơn
vào những trạng thái cảm xúc vi tế và lắng đọng nhất của tâm hồn. Đi giữa đường thơm là một ví dụ. Tình
yêu ở đây được mô tả như một trạng thái tự lắng nghe, tự thẩm thấu của con người.
Không gian ở đây được xác định bằng những chi tiết cụ thể: Đường
trong làng: hoa dại với mùi rơm/ Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm... Đó cũng là một không - thời gian của
mơ mộng. Một không - thời gian của của “màu vĩnh viễn”, khi những đường ranh cụ
thể của nó đã bị xóa nhòa bởi sự hòa hợp quấn quít giữa màu sắc, hương thơm và
trí tưởng tượng:
Lên bề
cao hay đi xuống bề sâu?
Không
biết nữa. - Có chút gì làm ngợp
Trong
không khí... hương với màu hòa hợp
...
Một
buổi trưa không biết tự thời nào
Như
buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao...
Có cu
gáy, có bướm vàng nữa chứ
Mà đôi
lứa đứng bên vườn tình tự
Buổi
trưa này xưa kia ta đã đi
Phải
cùng chăng? Lòng nhớ rõ làm chi!
Ở đây, cái tôi nhà thơ vừa là chủ thể đứng ra
giãi bày cảm xúc, suy nghĩ, vừa là cái khách thể được mô tả, tái hiện qua/
trong con mắt chủ thể ấy. Điểm nhìn bắt đầu từ bên trong, mở ra với những sự
kiện, hành động, cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật trữ tình: Đường trong làng - người cùng tôi đi dạo - chân bên chân, hồn bên hồn,
yên lặng... Tuy
nhiên, thay vì những cảm xúc được tỏ lộ một cách mãnh liệt, ồn ào, ở đây ta sẽ
thấy một đặc tính riêng trong cái nhìn của Huy Cận, ấy là cái nhìn ngẫm nghĩ,
phân tách tự bên trong. Nhân vật trữ tình vừa nhập vai vào đối tượng mô tả
(tôi) đồng thời, rất tự nhiên, tách ra khỏi chính mình để quan sát, và sự tự quan
sát ấy chi phối rất rõ đến mọi hành động (chừng như hết sức nhỏ nhặt, không
đáng kể) của anh ta:
Người khẽ nắm tay, tôi khẽ nghiêng mình
Như sắp nói, nhưng mà không; - khóm trúc
Vừa động lá, ta nhận vào một lúc
Cả không gian hồn hậu rất thơm tho;
Gió hương đưa mùi, dìu dịu phất phơ…
Trong cảnh lặng, vẫn đưa mùi gió thoảng…
Trí bâng khuâng nghĩ thoáng nhưng buồn nhiều:
“Chân hết đường thì lòng cũng hết yêu”.
Chân đang bước bỗng e dè dừng lại
- Ở giữa đường làng, mùi rơm, hoa dại…
Từng phân cảnh
thay đổi của không gian, cũng là phân cảnh - diễn tiến của xúc cảm. Ít nhất, ta
thấy ở đây mấy điểm đáng chú ý. Thứ nhất, cái tôi Huy Cận không ưa giãi bày, thổ
lộ ồn ào mà ưa tự phân tích, cắt nghĩa nội tâm, cảm xúc. Thơ Huy Cận không thiếu
cảm xúc, cá tính, chỉ là ông lựa chọn cách thể hiện cảm xúc, cá tính theo cách khác,
so với những nhà thơ cùng thời, đặc biệt khác với Xuân Diệu. Nếu Xuân Diệu sôi
nổi, nồng nhiệt thì ông tỉnh táo, tinh vi. Nêu Xuân Diệu ưa bộc lộ, giãi bày trực
tiếp thì ông ưa mô tả và lặng lẽ suy ngẫm. Thứ hai, sự kết hợp, song hành giữa
các yếu tố đối lập: cá biệt hóa - trừu tượng hóa; hiện tại hóa - vĩnh viễn hóa;
cảm xúc hóa - lý trí hóa trong thơ Huy Cận, do đó, là một xu hướng phổ biến. Cũng
ở ông, ta thấy khá rõ tính tiết chế trong việc biểu lộ xúc cảm cá nhân, do vậy,
giọng trữ tình tươi tắn nhưng vẫn từ tốn, điềm đạm.
4. Dĩ nhiên, bên cạnh cái nhìn và giọng điệu tươi trong, “rún rẩy” về thế giới này, đã sớm trỗi
lên trong Lửa thiêng, điều mà nhiều
nhà nghiên cứu đã tập trung chỉ ra, một cảm xúc và giọng điệu bi thương sầu muộn,
chất chứa ngay trong bài đầu tiên, và sau đó là nhiều bài khác nữa:
- Hỡi Thượng đế! Tôi cúi đầu trả lại
Linh hồn tôi đà
một kiếp đi hoang.
Sầu đã chín, xin Người thôi hãy hái!
Nhận tôi đi, dù địa ngục, thiên đường.
(Trình
bày)
- Đêm mưa làm nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la…
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nặng nặng nghe ta buồn buồn.
(Buồn
đêm mưa)
- Hồn đơn chiếc như đảo rời dặm biển,
Suốt một đời như núi đứng riêng tây,
Lòng chàng xưa chốn nọ với nơi này
Đây hay đó chỉ dựng chòi cô độc
(Mai
sau)
Những chất liệu
của đời sống thực đã được tái tạo lại trong tâm hồn thi sĩ rất mực nhạy cảm và
tài hoa, người dễ dàng “tủi nắng sầu mưa/
Cùng đất nước và nặng buồn sông núi”, thành mối “sầu vạn kỷ” bao trùm vũ trụ và hồn người. Dĩ nhiên ta không nên quy
chiếu nguyên nhân nỗi buồn sầu trong thơ một cách trực tiếp, đơn giản vào đời
tư tác giả. Những tình cảm, cảm xúc trong thơ nói riêng, nghệ thuật nói chung không
đơn thuần hình thành từ những lý do xã hội
học. Nhà thơ đã chia sẻ điều này qua một số lần trao đổi, trò chuyện [4;
226-227]. Điều này cũng đã được nhiều nhà phê bình, nghiên cứu nói tới (Hoài
Thanh, Xuân Diệu, Hà Minh Đức, Trần Khánh Thành, Đỗ Lai Thúy…). Sự thực buồn, sầu
là một đối tượng phản ánh, cũng là một giá trị thẩm mỹ nổi bật trong thơ lãng mạn.
Lưu Trọng Lư tuyên ngôn: Thuyền yêu không
ghé bến sầu/ Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng. Chế Lan Viên tuyên bố: Với tôi tất cả như vô nghĩa/ Tất cả không
ngoài nghĩa khổ đau. Nỗi buồn sầu trong thơ Vũ Hoàng Chương thê thiết não nề.
Nỗi buồn sầu trong thơ Hàn Mặc Tử được đẩy đến mức “điên cuồng”, “tê điếng”. Buồn sầu, trong thơ Xuân Diệu cũng được
nói đến khá thường xuyên, như một âm bản không thể tách rời lòng yêu đời vồ vập
cuống quít, một thứ “đặc sản” của “ông hoàng thơ tình”.
Nhưng nỗi buồn sầu
đó không thể át được dòng mạch thanh xuân trong những câu chữ của Lửa thiêng. Sự thật là, xuyên qua những
câu thơ viết về nỗi buồn của Huy Cận, ta vẫn nhận ra tấm lòng yêu đời mạnh mẽ,
trong lành. Sự ngọt ngào trong trẻo của những tình cảm, xúc cảm tuổi hoa niên,
hay lòng yêu đời thiết tha chan chứa khiến ông có thể nhìn ra được mạch sống ấp
ủ trong vạn vật và sau này sẽ đẩy ông đi xa hơn đến với sự gần gũi nhân quần. Cái
nhìn tươi tắn, lạc quan ấy xuất phát từ một “hồn trẻ mạnh” - cái tôi ở tuổi
xuân thì của tác giả. Nó cũng được hỗ trợ bởi cảm quan thẩm mỹ của thời đại Thơ
mới, khi ý thức cá nhân xuất hiện trong đời sống thị dân một cách công khai, và
được xem như một giá trị trong sáng tạo nghệ thuật.
Sự kết hợp giữa tính
chất cảm nghiệm trực tiếp với tính chất triết lý siêu hình đã tạo nên một cấu
trúc thơ độc đáo, thể hiện ngay từ tên thi phẩm: Lửa thiêng. Nó vượt lên những kinh nghiệm cá nhân để khái quát về
nhân quần và thế giới bằng thông qua/ bằng một nhãn quan vũ trụ mang tính siêu
nghiệm. Điều này khiến thơ tình Huy Cận không dừng lại ở việc mô tả chính xác,
tinh vi những cảm xúc đầu đời của cái tôi cá nhân (mặc dù đó cũng là một thành
công đáng kể). Những tình cảm, cảm xúc ấy, trong thơ Huy Cận, như đã phân tích
trên, luôn được nhìn nhận, mô tả trong sự suy tư có tính phổ quát về đời sống
nhân thế, vũ trụ, vốn là những yếu tố có thể tạo nên một tầm vóc thẩm mỹ khác hẳn,
so với kiểu thơ tình học trò thuần túy. Như vậy là, nằm trong chỉnh thể Lửa thiêng, những bài thơ tình của Huy Cận
một mặt tạo nên vẻ đẹp tươi mới, đầy xúc cảm và thi vị, mặt khác, chúng cũng
hoàn toàn thống nhất với mạch cảm hứng chung của toàn tập, khi những cảm xúc về
tình yêu, về tuổi hoa niên hòa trộn với những ưu tư về đời sống nhân thế, về vũ
trụ. Chúng tạo nên một sắc thái thẩm mỹ đặc thù trong sáng tác của ông giai đoạn
trước Cách mạng tháng Tám.
5. Theo định hướng Chương trình GDPT 2018, Huy Cận vẫn sẽ là một
tác giả không thể thiếu trong chương trình môn Ngữ văn ở phổ thông. Tuy nhiên,
tôi nghĩ cần thiết phải bổ sung, mở rộng thêm trong cách nhìn, cách mô tả và lý
giải về thơ ông. Đặt trong yêu cầu phát triển chương trình môn Ngữ văn, việc dạy
học về tác giả này, một mặt, cần được nhìn rộng ra, đồng thời gần gũi hơn với
năng lực và thị hiếu thẩm mĩ của học sinh. Bên cạnh Tràng giang, rất nên hướng dẫn học sinh tiếp cận với một số tác phẩm
khác của Huy Cận, để các em hiểu hơn về ông, và quan trọng hơn, để nhận ra lý
do thật sự đã biến ông, cùng với người bạn thơ thân thiết của mình - Xuân Diệu,
trở thành những ngôi sao sáng chói trên thi đàn Thơ mới: họ là đại diện đích thực của
tâm hồn tuổi trẻ.
Tóm lại, về phía cá nhân,
tôi hoàn toàn đồng thuận với ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu đi trước về
giá trị thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Với giới hạn chương trình phổ
thông hiện nay, việc lựa chọn Tràng giang
là có lý và sự định danh phẩm tính thơ Huy Cận thông qua Tràng giang là có cơ sở. Vấn đề là, Huy
Cận không chỉ có mỗi Tràng giang và học
sinh phổ thông rất cần mở rộng diện đọc cũng như cách đọc về tác giả này. Sự thực
là thơ Huy Cận, chính ở phần ít được nói đến trong nhà trường ấy, hết sức gần
gũi với lứa tuổi học trò, do đó, nó có khả năng nuôi dưỡng và làm nảy nở ở các
em niềm vui thích tự nhiên với thơ ca. Qua đó, ta có thể dần hình
thành ở các em những phẩm chất, năng lực cần thiết trong việc đọc thơ Huy Cận
nói riêng, văn học nói chung, một mục tiêu căn bản, thiết thực được đặt ra
trong chương trình giáo dục phổ thông mới.
Vinh, 30/5/2019
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1) Bộ giáo dục và Đào tạo, Phan
Trọng Luận tổng chủ biên (2007), Ngữ văn
11, tập 2, Nxb Giáo dục.
2) Bộ giáo dục và Đào tạo, Trần
Đình Sử tổng chủ biên (2007), Ngữ văn 11,
nâng cao, tập 2, Nxb Giáo dục.
3)
Bộ giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình Giáo dục phổ thông môn Ngữ văn.
4) Huy Cận (2011), Huy Cận toàn tập, tập 1 (2011), Nxb Văn
học.
5) Hà Minh Đức (2013), “Câu
chuyện về Lửa thiêng của nhà thơ Huy
Cận”, Một thế hệ vàng trong thơ Việt Nam
hiện đại, Nxb Thuận Hóa.
6) Nhiều tác giả (1999), Thơ mới 1932 – 1945, tác giả và tác phẩm,
Lại Nguyên Ân tập hợp và biên tập, Nxb Hội Nhà văn.
7) Nhiều tác giả (2003), Huy Cận, về tác gia và tác phẩm, Nxb
Giáo dục.
8) Hoài Thanh, Hoài Chân (1996)
Thi nhân Việt Nam 1932 -1941, bản in
lần thứ 12, Nxb Văn học.
[1] Cụm
từ này trích trong Lời đưa duyên, lời
tựa của Xuân Diệu viết cho tập Thơ thơ
(1938) của ông. Tôi muốn dùng chính cách diễn đạt này để nhấn mạnh đặc tính trẻ
trung trong thơ Huy Cận.
[2]
Xin dẫn ra vài nhận định trong SGK Ngữ văn hiện hành. SGK Ngữ văn cơ bản, Nxb Giáo dục, 2007: “Thơ Huy Cận hàm súc, giàu
chất suy tưởng, triết lý”, “Tràng giang là một trong những bài thơ hay nhất,
tiêu biểu nhất của Huy Cận. Theo tác giả, bài thơ này được viết vào mùa thu
1939 (in trong tập Lửa thiêng) và cảm xúc được khơi gợi từ cảnh sông Hồng mênh
mang sóng nước” (tr. 28); “Qua bài thơ mới mang vẻ đẹp cổ điển, Huy Cận đã bộc
lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm
tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha” (tr. 30); SGK Ngữ văn nâng cao, Nxb Giáo dục, 2007:
Trong phần nêu kết quả cần đạt: “Cảm nhận được nỗi sầu của một cái tôi cô đơn
trước thiên nhiên mênh mông hiu quạnh, trong đó thấm đượm cả nỗi sầu nhân thế
và tấm lòng yêu nước thầm kín của thi sĩ”, “Nhận ra được những vẻ đẹp cổ điển
trong một bài thơ mới”; “Huy Cận luôn khao khát và lắng nghe sự hòa điệu giữa hồn
người và tạo vật, giữa cá thể với nhân quần” (tr. 48).
[3] Xin xem thêm phần dẫn ở
chú thích trang 1.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét