TIẾNG THÉT GỌI CỦA CON NGƯỜI ĐÃ VƯỢT LÊN NỖI SỢ
(Đọc trường ca Đêm
trên cát, trong tập Trường ca
của
Thanh Thảo, Nxb Hội Nhà văn, 2009)
Lê Hồ Quang
Đêm
trên cát nằm trong vệt tác phẩm viết về nghệ sĩ -
trí thức, một kiểu hình tượng nổi bật trong thơ Thanh Thảo thời hậu chiến. Viết
về Cao Bá Quát, một nhà nho, một nhà thơ, vị quân sư của cuộc khởi nghĩa Mỹ
Lương, một con người có tài năng và số phận khác thường trong lịch sử dân tộc, trường
ca này là cuộc giải phẫu nội tâm cá nhân bi tráng
gắn liền cảm hứng nhận thức, lý giải về trách nhiệm trí thức
trước các vấn đề của thời cuộc, của đời sống lịch sử - xã hội.
Bao trùm Đêm trên cát là một trạng thái nội tâm đớn đau, bi phẫn. Trạng thái ấy gắn liền ý thức sâu sắc
về đời sống cá nhân, xã hội, trách nhiệm của kẻ sĩ và cũng chính nó đã thổi bùng lên ngọn
lửa phản kháng mạnh mẽ, dữ dội. “Ta” (được hiểu theo nghĩa đại từ nhân xưng
ngôi thứ nhất), là cách xưng danh của nhân vật trữ tình. Nó vừa gợi cảm giác
xưa cũ (thường gặp trong thơ xưa); đồng thời nhanh chóng xác lập tâm thế tâm sự/
tự sự/ giãi bày... của nhân vật: Ta đứng đây/ nương tựa vào chính mình vào mặt
đất... Nhưng việc đào sâu vào thế giới nội tâm cũng là dấn sâu thêm vào cảm
giác tổn thương nghẹn ngào chua xót:
tóc
xõa đầu ngọn gió
rối
bời bao tâm sự
ta
già rồi chăng
trước
mặt bức tường cao thêm mãi
gánh
nặng lưng còng trèo non lội suối
xòe
bàn tay còn lại đất bùn
mong
tài năng nở rộ dưới vầng dương
buồn
cười thay
nghe trong miệng vị sương mù nhạt thếch
Cuộc
sống khốn cùng của “dân đen”, của vợ con, bằng hữu và của cả chính ông
là một hiện thực nhỡn tiền. Nó đập thẳng vào mắt, buộc ông không thể tránh né:
-
cha lẩn thẩn đi học nghề mổ rồng
đâu
ngờ các con đói gầy đến thế
như
Thiếu Lăng thuở xưa về nhà
ôm
mặt khóc đất trời sầm tối
-
dài làm sao những buổi chiều trống rỗng
bụng
quắt queo kiến bò
cái
đói thật tình xuống hai hàng nước mắt
nào
phải chuyện văn thơ
Hiện
thực ấy đã nghiền nát ảo tưởng “nghiêng cánh nhạn tếch mái rừng Nhan, Khổng.../
Cựa đuôi kình toan vượt bể Trình, Chu...”, “đạp cửa phù đồ”, “xoay cơn
khí số”[1] của chính Cao Bá Quát thời
tuổi trẻ. Đối mặt với thực tế, giấc mơ công danh đã bộc lộ tất cả sự hão
huyền, thê thảm của nó: hố thẳm/ bao năm ròng chới với/ lòng mê man vin một
chút danh hờ; mong tài năng nở rộ dưới vầng dương/ buồn cười thay/ nghe trong
miệng vị sương mù nhạt thếch... Không phải ngẫu nhiên mà hình dung của Cao
Bá Quát về bản thân mình là kẻ “đứng phía mặt trời lên chậm”, “một gã nhà
thơ cùng đường”, “con chim quyên lỡ vận”, kẻ “giận mình chưa học được
phép ngủ/ mắt trừng trừng mở trước vực sâu”... Nó đi cùng ý thức sâu sắc về
sự đơn độc của bản thân trong một môi trường bạc nhược, hèn đớn, tù đọng đáng sợ
của xã hội, của bộ máy cầm quyền, nơi mà “mục nát lại chồng lên mục nát”.
Bởi vậy, có thể nói Đêm trên cát chính là tâm sự của con người đã
bị dồn đuổi tới bước đường cùng của hoàn cảnh và số phận, buộc phải đứng trước
lựa chọn mà dù chọn bên nào cũng đều gắn liền với đớn đau, mất mát cùng cực.
Nhưng trước sau ở Cao Bá Quát vẫn là một tâm niệm nhất quán:
quê
hương
nếu
cần phải làm lại
nếu
phải làm ngay không trễ nải
ta
xin hiến nốt đời mình
Khao
khát lý tưởng và sự thật, bất chấp nguy cơ cận kề “mõm chó vó ngựa”, cái
tôi Cao Bá Quát quả quyết “vung sự thật như cái vồ bằng đá/ giáng xuống những
cơn mê”. Để đi đến cùng lựa chọn, ông phải trả bằng một cái giá rất đắt
(trên thực tế, Cao Bá Quát phải trả giá bằng mạng sống của chính ông và cả gia
tộc). Như vậy, cuộc đấu tranh nội tâm - tư tưởng ở đây cũng là quá trình đi đến
nhận thức về cái giá khắc nghiệt phải trả “cho mỗi phẩm chất người/ dù rất
nhỏ”. Ấy là Tự Do, thậm chí là cái chết. Điều này không chỉ cho thấy sự khó
khăn trong lựa chọn. Nhìn từ phương diện nào đó, nó hé lộ cái đẹp bi tráng của
tinh thần lựa chọn/ dám lựa chọn ở cá nhân.
Có
lẽ bởi vậy mà “tiếng thét gọi” của con người ấy được tạo hình bằng những
chi tiết thật dữ dội:
gió
cát
quay
cuồng
chiếc
lá
xốc
áo đứng lên
lưu
đày
bầy
cá nược đua theo thuyền
trăng
bầm đỏ
mặt
biển bùng cơn ác mộng
con
quái vật lừ lừ phun khói
đang
bò về phương Đông
ta
thét gọi
chỉ
mình ta tỉnh thức
tiếng
ta chìm như hòn sỏi giữa mênh mông
Từ
nội tâm sôi sục, “tiếng thét gọi” đã hiển hiện trong những câu thơ/
như khạc từng búng máu, thành lời kêu gọi hành động quả quyết: hãy đứng
lên ngọn lửa/ giữa màn đêm kinh sợ/ hãy thắp sáng lời nguyền rủa/ trước Ngọ
Môn/ hãy uống cạn con đường/ đầy chông gai cạm bẫy/ hãy xuyên thủng bức tường/
bằng ngôn ngữ/ hãy chế ngự thời gian/ bằng lặng lẽ. Càng ngày, “tiếng
thét gọi” ấy càng trở nên gấp gáp, quyết liệt: hãy tỉnh dậy/ từ giấc ngủ/
nhằm đánh lừa/ cái bụng đói/ nhằm an ủi/ vết thương sâu/ hãy tỉnh dậy/ bóc lá
cao/ lời đường mật/ vứt toa thuốc/ bọn lang băm/ chuyện mánh mung/ trò bố láo/
hãy tỉnh dậy/ chớ mộng du/ đừng khiếp sợ.../ hãy tỉnh dậy/ nào bạn ơi!...
Nhu cầu sự thật ở đây không chỉ là khát vọng của Cao Bá Quát, ấy là sự cộng hưởng
tinh thần của Thanh Thảo và thời kỳ tiền Đổi mới mà tác giả Đêm trên cát
sống và viết. Cái quyết liệt của Cao Bá Quát dường như cũng là cái quyết liệt của
tâm hồn và ngòi bút Thanh Thảo: cháy tận cùng ngọn lửa/ dù phải thiêu đốt cả
mùa hạ.
Dĩ
nhiên, luôn cần ý thức rằng đây là Cao Bá Quát - một mẫu hình trí thức lý tưởng
trong quan niệm của Thanh Thảo. Trên thực tế, giữa hình tượng này và nguyên mẫu
trong lịch sử có thể không hoàn toàn trùng khít và đấy là một điều hết sức bình
thường. Hình tượng này là kết quả của một quan niệm sáng tạo riêng, thể hiện rõ
sự đồng cảm, thấu hiểu và khả năng phân tích nội tâm của ngòi bút Thanh Thảo.
Trong Đêm trên cát, sợ hãi là trạng thái nghiệm sinh đầy bi đát. Đó là nỗi sợ như là siêu
hình, không thể cắt nghĩa, lý giải. Cái bóng vô minh hắc ám lừng lững vây bủa không khí để thở, thức ăn để ăn, nước để uống. Một thứ thán khí
bao trùm. Sợ hãi khiến con người tê liệt, mất hết khả năng nhận thức, phản biện
và phản kháng. Nó hủy diệt khả năng tự do và tự quyết. Sống trong sợ hãi, con
người đồng thời sống trong cảm giác bất an thường trực. Mất niềm tin vào chính
mình, vào lẽ phải, sự công bằng, những điều tốt đẹp, con người dễ dàng bán rẻ
lòng tự trọng, sẵn sàng hành xử như một kẻ đốn mạt chỉ để “thích ứng”. Ấy là một
ngục thất tinh thần, nó nô dịch con người tự bên trong, biến anh ta thành nô lệ
từ đáy sâu vô thức:
bị
trói chặt giữa vòng dây và bóng tối
giữa
thói quen hằng ngày và nỗi sợ
những
chữ lạ viết mãi vào không khí
thẩm
vấn tra tấn ngục tù
không
duyên cớ không tuyên án
tóc
bạc trắng chờ lưỡi - dao - chưa - biết - bao - giờ - đến
Khi
con người thường trực phải sống trong nỗi bất an, sự sợ hãi, cảm giác bị đe dọa,
điều đó phản chiếu một hiện thực xã hội như thế nào, đấy hẳn không phải là điều
cần nói thêm.
Đêm
trên cát là cuộc đấu tranh tư tưởng quyết liệt của
một kẻ sĩ giữa lý tưởng cá nhân và trách nhiệm gia đình, giữa khát vọng xả thân
vì nghĩa lớn và danh vọng, lợi ích cá nhân. Nhưng, bao trùm tất cả, gay gắt hơn
cả, là cuộc đấu tranh giữa một bên là khát vọng sống như một con người chân
chính và một bên là nỗi sợ hãi vây bủa. Trong thơ Thanh Thảo (và có
lẽ, trên thực tế), quyết định đứng lên chiêu mộ dân nghèo khởi nghĩa chống lại
triều đình, lựa chọn trở thành “giặc”, “kẻ nổi loạn”, “tên phản nghịch” trong mắt
triều đình thực chất không hề dễ dàng đối với một nhà Nho như Cao Bá Quát.
Nhưng nhìn rộng ra, cả trong quá khứ lẫn hiện tại, những lựa chọn hành/
tàng, xuất/ xử trong những thời khắc lịch sử đòi hỏi quyết định có bao giờ
là dễ dàng đối với một kẻ sĩ chân chính? Trong Đêm trên cát, vượt qua những
đấu tranh, giằng xé, cái quyết định cuối cùng của Cao Bá Quát là “xốc áo đứng
dậy”. Hành động vì cuộc sống của những kẻ khốn cùng. Vì lý tưởng về một xã
hội tốt đẹp hơn. Và, nhìn từ góc độ triết lý nhân sinh nói trên, hành động cũng
là một cách để đối diện với nỗi sợ của chính mình. Để vượt lên nỗi sợ như là định
mệnh của cá nhân. Của cả thời đại. Do vậy, thời khắc ấy có ý nghĩa không phải
chỉ với Cao Bá Quát - người anh hùng của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, mà đặc biệt
có ý nghĩa với Cao Bá Quát - người nghệ sĩ, trí thức chân chính:
khởi
từ giờ tý
nơi
bản lề cánh cửa mở vào ngày mới
ta
xin đứng lại
chiến
đấu như một người
chặn
đường nỗi sợ
và
chết như một người
đã
vượt lên nỗi sợ
Cũng
cần phải nói thêm rằng, quyết định của người anh hùng Cao Bá Quát không hẳn đã
là cái đích ban đầu được vạch sẵn, được ý thức rành rõ và cứ thế đi đến cùng.
Trong quan niệm của Thanh Thảo, những hành động anh hùng, những tư tưởng anh
hùng và cả những con người anh hùng thực sự không phải là sản phẩm của óc tư biện
chủ quan duy ý chí. Chúng luôn được hình thành và tôi luyện trong những hoàn cảnh
lịch sử - xã hội cụ thể. Cũng vậy, những phẩm chất “kẻ sĩ” đích thực luôn là kết
quả của một quá trình va đập với hoàn cảnh sống, là sản phẩm cụ thể của những
điều kiện lịch sử xã hội nhất định, không thể tách rời với những vấn đề của hiện
thực đời sống và con người. Dẫu được gợi cảm hứng từ một nhân vật lịch sử,
nhưng những trăn trở, suy tư thời hậu chiến và tiền Đổi mới đã in đậm vẻ khắc
khổ, thậm chí cả sắc thái bi kịch trong chân dung trí thức trong Đêm trên
cát. Nó cho ta thấy quan niệm, tư tưởng của chính nhà thơ về những vấn
đề của đời sống nhân sinh - xã hội hiện tại. Thực chất, đây cũng là tư
tưởng xuyên suốt trong tác phẩm của Thanh Thảo từ Những người đi tới biển
đến Dạ, tôi là Sáu Dân, có điều theo một cách tiếp cận và diễn đạt
có khác.
Như
chính lời đề từ cho biết, tác phẩm viết về “một đêm của nhà thơ Cao Bá Quát”.
Đó là một không - thời gian mang tính tượng trưng rõ nét. Ở đó, mỗi giờ khắc, sự
vật, hình ảnh đều đánh động nỗi bi phẫn, sự cô đơn, tinh thần trách nhiệm và
khát vọng lớn lao. Tiếng nói nội tâm, dễ bị áp chế bởi ánh sáng ban ngày, bởi
những ồn ào đám đông, nay trỗi lên mãnh liệt dị thường khi bóng tối và sự im lặng
vây bủa. Đó cũng là cái thời điểm con người khó trốn chạy chính mình hơn cả. Đặc
biệt, không - thời gian này còn gắn liền với cảnh ngộ tù đày có tính cá biệt của
Cao Bá Quát. Đêm trên cát, do vậy, dồn chứa sức nặng tâm sự
của cả một cuộc đời và thậm chí cả nhiều cuộc đời. Nó cho phép nhà thơ có thể
xây dựng những chiều liên tưởng phong phú, trùng phức, đa chiều, ngỡ như lộn xộn,
phi lý nhưng lại hoàn toàn hữu lý (nếu ta nhìn từ xuất phát điểm cấu tứ của tác
phẩm: dòng tâm tư đặc biệt của một con người đặc biệt, trong một không - thời
gian đặc biệt). Từ đây, nổi bật lên hình tượng một con người đơn độc trong đêm,
bị vây bủa trong mênh mông bóng tối và sự cô độc, nỗi sợ hãi, những tra vấn
giày vò. Có một sự tương phản gay gắt giữa cái im lặng thăm thẳm của đêm tối, của
bãi cát dài và cái giằng xé dữ dội trong tư tưởng con người. Những câu hỏi liên
tục xoáy sâu như sóng triều về cuộc đời, con đường phải đi, về gia đình, bằng hữu,
những kẻ dân đen khốn cùng:
-
Vì lẽ chi
họ
bỗng đặt vào ta bàn tay lửa
ta
có thể đưa tặng họ món ăn gì
ngoài
hy vọng?
ta
có thể trao cho họ của cải gì
ngoài
gánh nặng?
khi
ta giương ngọn cờ cay đắng
vì
lẽ chi họ hăm hở tụ về?
-
Muốn hỏi cây gạo làng Phú Thị mà hoa đỏ bao lần
ám
ảnh tuổi thơ
muốn
hỏi chiếc gông dài nặng hơn cả ngàn trang sách
mùa
xuân mang rượu lên núi cao
muốn
hỏi Ức Trai người anh hùng muôn thuở
cái
gì sẽ đổi thay?
Hình ảnh,
thi tứ thơ Cao Bá Quát tràn ngập trong tác phẩm, tạo nên một “dung môi” thi ca
khá đặc biệt (điều ta cũng sẽ thấy trong trường ca Trò chuyện với nhân vật
và tác phẩm có dung lượng nhỏ hơn, bài thơ Đàn ghita của Lorca).
Cái tên Đêm trên cát rõ ràng được xây dựng trên cơ sở liên tưởng
với bài thơ nổi tiếng của Cao Bá Quát - Sa hành đoản ca... Và khi
đọc đến những câu thơ: khêu bấc đèn ngóng đợi/ ngỡ vừa nghe tiếng kẹt cửa của
hư vô/ giật mình chưa học được phép ngủ/ mắt trừng trừng mở trước vực sâu; ta
đã giải trọn kiếp người/ với dòng sông dựng ngang trời thanh gươm/ với bài ca
thủa khốn cùng/ hát bên người đói ngập ngừng xin cơm/ với tàn nhẫn lời roi
song/ cháy trên da thịt hãy còn biết đau... ta cảm nhận vang âm rõ rệt của
những Sa hành đoản ca, Cấm sở cảm sự, Túng bút ngẫu thư, Trường giang
thiên, Đằng tiên ca, Độc dạ cảm hoài... Có thể nói Thanh Thảo
“ngấm” rất sâu tinh thần thơ Cao Bá Quát. Ngay cả khi tác giả không sử dụng
nguyên văn câu chữ trong tác phẩm của Cao Bá Quát thì câu chữ, hình ảnh Đêm
trên cát vẫn thấm đẫm phong vị, hồn cốt của nhà thơ tài hoa thế kỉ XIX
và vẫn đầy sức gợi.
Nếu
hình dung Đêm trên cát là một chỉnh thể thì đấy là một cấu trúc
chỉnh thể bao gồm nhiều câu thơ vừa nằm trong mạch thơ chung, vừa có tính độc lập
tương đối. Ta có thể dễ dàng “lẩy” ra nhiều trích đoạn mà ở đó độ dồn nén câu chữ, sức gợi của hình ảnh, nhạc
tính, đã tạo nên vẻ đẹp và tính thơ rất sâu:
-
lặng yên trên bề mặt
gào
thét dưới chiều sâu
hiểu
những giới hạn
và
khoảng khắc
một
thành hai thành ba thành vô số
mãi
mãi dò tìm
mãi
mãi không thể nào chạm đáy
-
Có tiếng gì quen thuộc
đến
từ sắc trời phút giây thay đổi
chừng
gọi ta từ yên tĩnh không cùng
-
ta nghe những cánh rừng quẫy mạnh
trong
hoang vu
cây
vươn vai ầm ào như bão
có
nhẽ ta chưa từng đến đó
chưa
dò xuống những bậc thang kỳ lạ
để
thám hiểm chính mình
để
vớt lên
những
cánh hoa cho mùa xuân khác
-
khô khốc
một
tiếng kêu ngắn
khô
khốc
khoảng
lặng im đầy âm nhạc
chờ
đợi những bước chân
của
màu nâu trầm ấm
Cao
Bá Quát là một hình tượng tư tưởng. Cái cốt lõi tạo nên vẻ đẹp của hình tượng
này là quan điểm, nhận thức. Nhận thức về vị trí, trách nhiệm của một trí thức
trước đời sống xã hội. Nhận thức về những “phẩm chất người” cần có trong
một thời đại nhiễu nhương, biến động. Nhận thức về sự lựa chọn khi phải đứng
trước ngã ba của lòng người và lịch sử. Cái quyết liệt, mạnh mẽ ấy tạo nên sức
vóc cho trường ca, và “tính vấn đề” của tư tưởng, hình tượng:
ở
những ranh giới mơ hồ
đây
là điều sáng rõ
phải
trả giá cho mỗi phẩm chất người
dù
rất nhỏ.
Sự
khách thể hóa cao độ của hình tượng tạo điều kiện để tác giả có thể mô tả sâu sắc,
tường tận hơn vẻ đẹp và độ phong phú trong đời sống nội tâm nhân vật. Tuy nhiên
điều này đã làm mờ đi sự thể hiện trực tiếp của cái tôi tác giả. Theo cách này,
nói về nhân vật lịch sử Cao Bá Quát là nói về một đối tượng ở bên ngoài nhà
thơ, tồn tại độc lập với nhà thơ và những vui buồn, uất hận của nhân vật kẻ sĩ
- trí thức này dường như cũng có một khoảng cách nhất định với tác giả - chúng
là những đối tượng khách quan được mô tả. Và bởi vậy, Đêm trên cát
dễ được tiếp nhận như một sự suy ngẫm, triết lý, chiêm nghiệm có tính khái quát
về con người và đời sống nói chung hơn là một thái độ xã hội - thực tiễn trực
diện, cụ thể. Đó là một trong những lý do giải thích vì sao Đêm trên cát
không gây ra “hiệu ứng thời sự” như một vài bài thơ cùng thời điểm của các tác
giả khác, dẫu rằng vấn đề nó đặt ra trong đó hết sức có ý nghĩa.
Từ
góc nhìn của Thanh Thảo, Cao Bá Quát đã trở thành một hình tượng giàu tính tượng
trưng, “sáng” lên từ nhiều ý nghĩa: người thức tỉnh, người kêu gọi, người dấn
thân. “Phẩm chất người”, mà cũng là phẩm chất trí thức trong quan niệm
này là khả năng đối mặt với chính mình, dám đi tới cùng sự lựa chọn lý tưởng và
giải quyết không chỉ bằng tư tưởng, thái độ mà còn bằng hành động can dự mạnh mẽ
vào thực tiễn đời sống. Đó là kết quả của sự nhận thức và tự nhận thức rạch
ròi, tỉnh táo, triệt để. Có vậy con người mới đủ sức vượt qua sợ hãi và những
ngụy tưởng chân lý.
Vinh,
12/6/2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét