THỎA THUẬN THƠ
Lê Hồ Quang
Dưới “áp lực” của tiêu
đề, khi đọc Thỏa thuận, gần như ngay
lập tức, trong óc tôi nảy sinh hàng loạt câu hỏi: Thỏa thuận nói về
cái gì? Là sự “thỏa thuận” trong cấu trúc ngôn ngữ, giữa hai mặt kí hiệu và
hình ảnh âm thanh cấu thành, vốn có mối quan hệ võ đoán? Là sự “thỏa thuận”
trong hoạt động giao tiếp xã hội, giữa người nói và người nghe mà ngôn ngữ là
phương tiện kết nối? Là sự “thỏa thuận” trong hoạt động tiếp nhận văn học, được
xác lập trên mối quan hệ giữa độc giả và văn bản, một mối quan hệ
cũng đầy tính bất định? Hay Thỏa thuận
còn là gì đó khác?
Thoạt tiên, tôi thử áp
dụng cách đọc lược, bao quát nhanh nội dung chính của văn bản, đồng
thời kết nối một số yếu tố trong văn bản với những yếu tố bên ngoài, có mối
liên hệ gần, chẳng hạn thông tin về con người tác giả; hoặc, những lí thuyết
triết học, mĩ học… bàn về vấn đề liên quan. Thao tác đó cho phép tôi “lược quy”
một số nét chính trong nội dung bài thơ như sau:
- Bài thơ bàn đến một
tính chất đặc thù của hoạt động ngôn ngữ - tính "thỏa thuận"
(hoặc diễn đạt theo cách khác - tính quy ước), trong giao tiếp đời sống và nghệ
thuật. Đó là mối quan hệ vừa có tính xác định vừa đầy bất định.
- Bài thơ mô tả hoạt
động ngôn ngữ thông qua một số biểu hiện cụ thể: nói, nghe, hiểu… khá sinh
động. Ngôn ngữ là hình tượng trung tâm của bài thơ.
- Bài thơ giàu tính
khái quát, triết lí. Nó gợi mở suy ngẫm về các mối quan hệ giao tiếp trong nghệ
thuật và đời sống.
Có một số “điểm tựa” dẫn
tôi đến sự suy luận về nghĩa/nội dung văn bản nói trên. Cụ thể như sau:
a) Tên bài thơ là Thỏa thuận.
Toàn bộ câu chữ, hình ảnh trong văn bản tập trung vào việc làm sáng tỏ luận đề
"tính thoả thuận" trong giao tiếp ngôn ngữ.
b) Mối liên hệ
giữa nội dung Thỏa thuận với một số tri thức, lí thuyết triết
học, ngôn ngữ, văn hóa, nghiên cứu văn học hiện đại. Chẳng hạn, lí thuyết ngôn
ngữ học cấu trúc của F. de Sausure với quan niệm về bản chất võ đoán của dấu
hiệu ngôn ngữ[1];
lí thuyết Kí hiệu học với quan niệm về giao tiếp ngôn ngữ trong đời sống và
nghệ thuật “như là sự giao nhau đầy căng thẳng giữa những hành vi ngôn ngữ
tương thích và không tương thích” (IU.M. Lotman)[2]; Mĩ học tiếp
nhận với quan niệm khẳng định bản chất giao tiếp của nghệ thuật và
tính tích cực, sáng tạo trong hoạt động tiếp nhận của độc giả [3]. Ngoài ra, về vấn
đề này, còn có thể nhắc đến lí thuyết giải cấu trúc, lí thuyết diễn
ngôn, lí thuyết hậu hiện đại…
c) Mối liên hệ giữa Thỏa thuận với kiểu tư duy, cảm quan
thẩm mĩ của nhà thơ (đồng thời cũng là nhà nghiên cứu văn học) Trương Đăng Dung
và với những sáng tác khác của ông.
Nhưng có thực nghĩa/ ý nghĩa của bài thơ chỉ nằm ở đó?
Theo quan điểm tiếp nhận
hiện đại, nghĩa/ ý nghĩa của bài thơ được tạo sinh trong hoạt động tiếp nhận
của độc giả. Nghĩa là, tùy vào năng lực đọc của độc giả, sẽ xuất hiện vô số văn
bản Thỏa thuận phái sinh, trên cơ sở văn bản ngôn từ đã được
Trương Đăng Dung khởi tạo. Như vậy, một số nghĩa mà tôi “đọc lược” ở trên, thực
chất cũng chỉ là sự “thỏa thuận” của cá nhân tôi với văn bản. Văn bản
phát, còn tôi nhận. Với tầm đón nhận của tôi, nghĩa của văn bản
có thể là vậy. Nhưng với độc giả khác, nghĩa của Thỏa thuận sẽ
không, hoặc không chỉ như vậy.
Mặt khác, sự lược quy
nội dung của tác phẩm vào việc tóm tắt nội dung, kèm theo một số chú giải như
cách tôi đã làm ở trên là hoàn toàn không đủ. Không thể truyền đạt bản chất của
tác phẩm văn học dưới dạng trình bày tóm tắt nội dung của nó. Ngoài ra, việc lí
giải văn bản bằng những yếu tố nằm ngoài cấu trúc chỉnh thể văn bản rất dễ dẫn
đến nguy cơ áp đặt và suy diễn. Hệ quả là, thay vì bản chất thẩm mĩ của tác
phẩm, tôi chỉ nhìn thấy “cái vỏ biểu kiến bên ngoài” của nó.
Vấn đề tiếp theo là,
giữa “thỏa thuận” của tôi và “thỏa thuận” của độc giả khác với bài thơ, đâu là
kết quả đúng? Đâu mới thực sự là nghĩa và ý nghĩa của bài thơ?
Ở trên, tôi mới dừng lại
ở cách đọc lược, tức tìm kiếm những yếu tố ngôn từ lặp lại, tập
trung vào tiêu điểm “thỏa thuận”, kết nối chúng với chủ đề, dùng những kinh
nghiệm và tri thức đã có về những yếu tố ngoài văn bản (thông tin về tác giả,
các lí thuyết triết học, mĩ học, khoa học…), cố gắng tìm mối liên hệ giữa
chúng, nhằm tìm ra những lớp nghĩa tương ứng. Điều này thực ra không khó, bởi
giữa văn bản Thỏa thuận và những yếu tố bên ngoài ấy quả thực
có mối liên hệ khá rõ, khá trực tiếp. Tuy nhiên, những lớp nghĩa mà tôi tìm
thấy chủ yếu là nghĩa đen, nghĩa xã hội học.
Việc đọc văn bản, nếu
muốn tiệm cận tới những lớp nghĩa sâu hơn, đòi hỏi đọc kỹ (close
reading). Với cách đọc này, bài thơ được nhận thức như một cấu trúc có tính tự
trị, với sự toàn vẹn hữu cơ của nó.
Vậy có gì đặc biệt trong
cấu trúc nội thân của Thỏa thuận?
Bài thơ chia làm 5 đoạn.
Đoạn thứ nhất, gồm 5 dòng, tôi tạm gọi là phần tạo tình huống:
Ngôi nhà muốn bay
con đường muốn trôi
dòng sông muốn dựng ngược
các sự vật muốn được gọi tên
các sự việc muốn có đời sống mới.
Ngôi nhà, con đường,
dòng sông là
những sự vật, hình ảnh quen thuộc, gắn liền những ý niệm tính chất, đặc điểm đã
thành ổn định, bất biến trong lịch sử ngôn ngữ. Bằng cách đặt tên cho sự vật,
con người đã thực hiện hành vi cưỡng chế sự vật, buộc chúng tồn tại trong khuôn
khổ ý niệm có tính định mệnh. Bài thơ nêu lên một tình huống giả tưởng, và cũng
là một đề nghị cùng suy nghĩ: ngôi nhà muốn bay, con đường muốn trôi, dòng
sông muốn dựng ngược. Đòi hỏi “được gọi tên”, đòi hỏi có một “đời
sống mới”, thực chất là đòi hỏi thay đổi nhận thức của con người về những
chân lí mặc định, những “đại tự sự” bất biến.
Từ tình huống giả tưởng về sự nổi loạn của sự vật nhằm chống
lại sự áp chế của ngôn ngữ, bài thơ tiếp tục mạch mô tả về hoạt động ngôn ngữ
trong thực tiễn đời sống:
Một người nói một người
nghe
một người nói nhiều người nghe
nhiều người nói một người nghe
nhiều người nói nhiều người nghe.
Người nghe lặng lẽ nghe
người nói thản nhiên nói
người nghe tự hiểu
người nói tự im
Vô số tình huống giao
tiếp được phác nhanh trong tám dòng thơ. Có giao tiếp cá nhân với cá nhân (một
người nói một người nghe); giao tiếp cá nhân với tập thể (một người nói
nhiều người nghe); giao tiếp tập thể với tập thể (nhiều người nói nhiều
người nghe)… Ấy là ta tạm định danh và phân loại thế, để lược quy chúng về
một số dạng thức giao tiếp phổ biến trong đời sống với hai hoạt động tương tác
là nói - nghe. Tuy nhiên, với sự lặp đi lặp lại liên tục của những cụm từ nói/
nghe, một người/ một người, nhiều người/ nhiều người… những đường nét,
sự kiện cụ thể bị nhòe đi, chỉ còn lại cảm giác về một cuộc đối thoại liên tu
bất tận nhưng âm thanh đã bào mòn, trượt nghĩa, rỗng nghĩa, gợi liên tưởng tới
Tháp Babel âm thanh lở lói, nham nhở, trống rỗng… Cuộc hội thoại khổng lồ nhưng
câm lặng của nhân loại được “tạo hình” thật xuất sắc.
Rốt cục, đến lúc đối
thoại cũng sẽ trở thành độc thoại. Đến lúc chủ thể và đối tượng giao tiếp cũng
biến mất. Đúng hơn, chủ thể hòa lẫn vào mênh mông câm lặng: lặng lẽ
nghe/ thản nhiên nói/ tự hiểu/ tự im.
Khi chủ thể và đối tượng
giao tiếp (là người) dần đánh mất vị thế, ngôn ngữ trỗi dậy khẳng định quyền tự
trị của mình:
- Ngôn từ kết nối
phân chia.
- và ngôn ngữ
tự do tạo nghĩa.
Ý tưởng về sức mạnh ngôn
ngữ trên khiến ta liên tưởng đến Kinh Thánh - Khởi thủy là Lời. Lời
(ngôn ngữ) là sức mạnh nối kết, cũng là sức mạnh hủy hoại. Tính tự do
tạo nghĩa của nó, một mặt, hàm chứa vẻ đẹp và giá trị tự thân, mặt
khác, báo trước những nguy cơ, thậm chí là hiểm họa. Vấn đề nằm ở nhận thức của
con người:
Thế giới không thuần
nhất
bấp bênh
những ý nghĩa thoả thuận.
Biến một ý niệm
trừu tượng (ngôn ngữ) thành một hình tượng, đồng thời,
đứng từ/ trong điểm nhìn của đối tượng, cất lên tiếng nói
“phản biện”, đòi hỏi một nhận thức thấu đáo hơn về bản chất ngôn ngữ, và cùng
với nó - bản chất của giao tiếp xã hội, nghệ thuật, đó là một cách lập tứ độc
đáo.
Thực ra, về mặt thông
tin, Thỏa thuận không đặt ra vấn đề
gì mới (dĩ nhiên đây không phải mục đích chính của nó). Mặt khác, sự nhất quán
từ tiêu đề đến hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ đã tạo áp lực dẫn đến kết luận có
tính tất yếu. Bài thơ, do vậy, rất chặt chẽ về cấu tứ song tương đối “đóng” về
nghĩa. Việc tập trung mô tả ngôn ngữ như một khách thể độc lập với ý thức con
người, bằng giọng điệu khách quan, trung tính, dẫn đến hiện tượng “giải chủ
thể” ngay trong chính văn bản. Sự
giấu mặt triệt để của tác giả cũng khiến ngôn ngữ, giọng điệu thơ trở nên đơn
điệu.
Thi tính của bài thơ,
đôi khi, nằm ở một số yếu tố tưởng chừng phụ trợ. Chẳng hạn, cái cảm giác tức
tối cựa quậy của ngôi nhà muốn bay/ con đường muốn trôi/ dòng sông muốn
dựng ngược ở phần mở đầu. Hoặc, cảm giác bội trương đến tức thở của
những cuộc hội thoại, mà phần biểu cảm đã bị cắt bỏ, chỉ còn lại phần nhiễu
thanh:
Một người nói một người
nghe
một người nói nhiều người nghe
nhiều người nói một người nghe
nhiều người nói nhiều người nghe.
Hệt như ta đang đứng
trước một bức tranh siêu thực, ảnh tượng nhòe vào nhau, chồng lấn lên nhau, bội
trương đến n lần. Lớp lớp ảo cảnh đan xen đến đau mắt, đến tức
thở, nhức nhối. Giống như trong cơn Ác mộng mà tác giả từng
kể:
Tất cả áp sát tôi
tôi nói, họ không hiểu
họ nói, tôi không hiểu
Hoặc trong Giấc
mơ của Kafka:
Khắp nơi
những đôi mắt
dính trên cổ những người
không có mặt
những tiếng kêu
phát ra từ miệng người
không có cổ
những bàn chân
càng bước càng lún sâu
vào đất
Nhận thức về một thế
giới “không thuần nhất”, “bấp bênh” và “ý nghĩa” giao tiếp
chỉ là kết quả của sự “thỏa thuận” đồng thời gợi cảm giác đời sống đầy
lo âu, hoài nghi và bất an. Trong một đời sống thiếu vắng sự kết nối, cảm thông
và thấu hiểu, im lặng là một thứ ngôn ngữ bắt buộc. Một thứ ngôn ngữ bất lực và
buồn bã:
Người nghe lặng lẽ nghe
người nói thản nhiên nói
người nghe tự hiểu
người nói tự im
Ngay việc chọn đặt tên
bài thơ, thay vì một số từ/ cụm từ hay cách diễn đạt có tính minh xác và khoa
học hơn (chẳng hạn, quy ước ngôn ngữ…, dĩ nhiên đây không phải
phương án hay), tác giả lại chọn từ Thỏa thuận, một cách diễn đạt
có phần đời thường, khá lấp lửng, chắc chắn tạo nên những suy diễn xa hơn hoạt
động giao tiếp ngôn ngữ thuần túy. Cách diễn đạt này, vì thế, hàm chứa một ý vị
mỉa mai kín đáo. Ngôn từ, ở đây, một lần nữa đã “tự do tạo nghĩa”.
Đọc kĩ, với tư cách là một phương pháp, rất có ý nghĩa trong tiếp nhận tác
phẩm văn học. Đó là cách đọc coi trọng cấu trúc chỉnh thể của văn bản, với các
yếu tố cấu thành hữu cơ. Dẫu vậy, trên thực tế, không thể bỏ qua các cách đọc
hỗ trợ như đọc bao quát, đọc liên hệ bối cảnh… Trong trường hợp Thỏa thuận,
không thể thiếu sự hỗ trợ của các thông tin ngoài văn bản.
Cùng một hiện tượng văn
học, có nhiều cách tiếp cận, lí giải và không thể ảo tưởng đòi hỏi một cách
đọc/ hiểu duy nhất đúng. Riêng về điều này, Thỏa thuận chính
là một nhắc nhở cần thiết.
Vinh,
14/4/2021
L.H.Q.
THỎA THUẬN
Trương Đăng Dung
Ngôi nhà muốn bay
con đường muốn trôi
dòng sông muốn dựng ngược
các sự vật muốn được gọi tên
các sự việc muốn có đời sống mới.
Ngôn từ kết nối
phân chia.
Một người nói một người nghe
một người nói nhiều người nghe
nhiều người nói một người nghe
nhiều người nói nhiều người nghe.
Người nghe lặng lẽ nghe
người nói thản nhiên nói
người nghe tự hiểu
người nói tự im
và ngôn ngữ
tự do tạo nghĩa.
Thế giới không thuần nhất
bấp bênh
những ý nghĩa thoả thuận.
9-2010
Nguồn: Trương Đăng Dung (2018), Những kỉ niệm tưởng tượng, Nxb. Európa, Budapest.
[1] F. de Sausure (2005), Giáo trình
ngôn ngữ học đại cương, Cao Xuân Hạo dịch, Nxb Khoa học Xã hội.
[2] IU.M. Lotman (2016), Kí hiệu học văn hóa,
Lã Nguyên dịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.74.
[3]
Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học
như là quá trình, Nxb Khoa học xã hội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét