Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2025

Lò Mổ của Nguyễn Quang Thiều

                                                CẤU TRÚC MỘT ÁC MỘNG

(Về trường ca Lò Mổ của Nguyễn Quang Thiều, Nxb Hội Nhà văn, 2025)

                                                                                                                                                                                                  Chúng ta phải đi qua đêm tối này

                                                                      (Chương 18 - Hãy đứng dậy)                            


Tranh của Nguyễn Quang Thiều

                                                                                
              Lê Hồ Quang

1. Lời mở

Trong lời mở đầu Lò Mổ, Nguyễn Quang Thiều khẳng định: “Viết chỉ là một hành động mang tính cá nhân. Ngay cả khi những trang viết được công khai với bất cứ hình thức nào cũng chỉ là hành động của cá nhân. Tôi "cá nhân hóa" toàn bộ Lò Mổ”.

Nhưng viết có thực chỉ là một hành động cá nhân? Tôi nghĩ, nếu xét về bản chất sáng tạo thì đúng vậy - viết là một hành động cá nhân, bởi trong quá trình viết, tác giả luôn thể hiện nhãn quan, bút pháp và quan niệm riêng về thế giới. Tuy nhiên, khi tác giả cất tiếng bằng ngôn ngữ thơ, ngôn ngữ nghệ thuật, họ đã đồng thời tham gia vào một quy ước giao tiếp cộng đồng đặc thù. Một khi tác phẩm bước vào đời sống văn học, nó phải tuân thủ các quy tắc giao tiếp xã hội và chấp nhận những phản ứng trái chiều từ cộng đồng tiếp nhận, diễn giải. Khi đó, từ một hành động cá nhân, viết đã trở thành một hành động xã hội.

Việc Nguyễn Quang Thiều nhấn mạnh tính cá nhân của hành động viết, tính chất “ác mộng” của Lò Mổ và khẳng định “tôi không có hy vọng tìm được cơ hội để chia sẻ câu chuyện này với ai khác ngoài tôi” không chỉ là một cách nói mang tính trữ tình (dù “nói” bằng các ẩn dụ thống thiết là phong cách quen thuộc của nhà thơ này). Có lẽ, sự tiếp nhận trái chiều từ phía độc giả đã được ông lường trước, trước khi trình ra “cơn ác mộng” của mình. Trên thực tế, khi chính thức ra mắt vào cuối năm 2024, Lò Mổ đã gây ra những tiếp nhận trái ngược khá gay gắt. Những tranh cãi xung quanh tập trường ca này có lúc bị đẩy lên đỉnh điểm, buộc tác giả phải lên tiếng nhờ pháp luật can thiệp[1]. Trước đó, tập Sự mất ngủ của lửa (xuất bản năm 1992, nhận Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1993) của ông cũng gây ra những tranh luận gay gắt tương tự trong giới chuyên môn và độc giả nói chung[2]... Có thể nói, đấy là cách để tác giả vạch ranh giới và xác lập một giao ước đọc/ tiếp nhận với độc giả. Điều này vừa cho thấy quan niệm cá nhân của ông về hành động viết, hé lộ cấu trúc hình tượng đặc biệt của tác phẩm, đồng thời thể hiện sự trải nghiệm và hiểu biết về một cộng đồng diễn giải phức tạp mà ở đó sự viết và sự đọc không phải bao giờ cũng tương thích. Tôi nghĩ hành vi tự giới hạn này không phải xuất phát từ sự kiêu hãnh về phẩm chất cá nhân của cái tôi nghệ sĩ (Tôi là con chim đến từ núi lạ/ Ngứa cổ hát chơi - Xuân Diệu) hay ý thức về quyền uy tuyệt đối của chủ thể trong sáng tạo (Ở đây tôi là vị hoàng đế đầy đủ quyền uy - Thanh Tâm Tuyền), mà là một sự tự phòng vệ thì đúng hơn (thực tế những gì xảy ra sau khi cuốn sách ra đời cũng chứng thực rằng sự phòng vệ này là đúng). Mặt khác, ngược lại với mong muốn của tác giả (“tôi không muốn ý chí can thiệp vào cơn mộng mị của tôi”), nó cho thấy một cơ chế kiểm soát/ tự kiểm soát mang tính lí trí rất rõ. Dĩ nhiên, một khi còn phải nói về viết như một nỗ lực “vượt thoát khỏi tự do” thì như một nghịch lí, ta thấy rõ hơn lúc nào hết, cả sự thiếu tự do lẫn sự kiềm tỏa đáng ngại của những thiết chế văn hóa, xã hội đang công khai hoặc ngầm ẩn chi phối đời sống sáng tạo.

Tôi muốn xem Lời mở đầu này như một bộ phận hữu cơ của trường ca Lò Mổ, đường viền ngoài nhưng sắc nét, giàu tính hiện thực của "cơn ác mộng" về thế giới “mà tôi đang sống” (Nguyễn Quang Thiều). Nó là một đề dẫn, một gợi ý, một khuyến nghị đáng quan tâm trước khi độc giả bước vào thế giới của Lò Mổ.

2. Thế giới mộng du

Không ngẫu nhiên mà Lò Mổ được viết hoa cả hai chữ - đó là một không gian biểu tượng. 18 chương ứng với 18 đề mục/ tiểu chủ đề, đều có tính tượng trưng, gợi mở về một hành trình đời sống, cũng là một hành trình ý thức. Bắt đầu từ một câu hỏi về thực tại/ hành động sống của con người - Có phải chúng ta tội lỗi và kết thúc là lời kêu gọi thức tỉnh - Hãy đứng dậy.

Không khí của Lò Mổ gợi ấn tượng tựa như cảnh Dante bước vào cổng Địa ngục trong trường ca Thần khúc của Dante Alighieri:

  “Qua khỏi đây là xứ thảm sầu,

Qua khỏi đây là đau thương vĩnh viễn!

Qua khỏi đây là thế giới của bọn người vô vọng!

...Hỡi chúng sinh khi bước vào đây, hãy vứt lại mọi niềm hy vọng!  

             (Địa ngục - khúc III, Nguyễn Văn Hoàn dịch)

Nếu trong Thần khúc, hành trình của nhân vật Dante bắt đầu từ Địa ngục, qua Luyện ngục và cuối cùng đến Thiên đường, thì trong Lò Mổ, hành trình của người kể chuyện bắt đầu từ chương 1, với câu hỏi ám ảnh - Có phải chúng ta tội lỗi; tiếp đến, Chương 2 - 15 (từ Mộng du, … Thư gửi mẹ) là hành trình mộng du trong cõi Lò Mổ, và phần cuối gồm Chương 3 - 18 (Phán xử, Lời cầu xin, Hãy đứng dậy), nói về sự sám hối và thức tỉnh.

Hình tượng trung tâm của tác phẩm là Lò Mổ và xung quanh là bộ ba hình tượng Bò - Ruồi - Người. Bò vừa là nạn nhân của Đồ tể - người, vừa là hình ảnh đồng dạng đau khổ của con người. Ruồi là hiện thân của sự suy đồi và thối rữa, kẻ sống trên máu, phân và xác chết, đóng vai trò tòng phạm, chứng nhân, kẻ đeo bám và kẻ phán xử của Địa ngục. Con người hiện diện trong nhiều vai, là Chàng và Nàng, hoá thân của Adam và Eva, thủy tổ loài người, trong đời sống trần gian lạnh giá; là chủ lò mổ và Đồ tể, nhưng cũng là người viết nên văn bản Lò Mổ và văn bản - đời sống này…

Nếu dừng lại ở hệ thống tên tác phẩm, các tiểu mục, những hình tượng ẩn dụ được tô đậm, phóng đại, được “nói lớn” (đại ngôn) một cách cố ý, không khó khăn gì để nhận ra ý nghĩa tượng trưng và cả những “thông điệp” tư tưởng được gửi gắm trong đó. Tuy nhiên, không dừng lại ở bộ khung ý tưởng hoặc đề mục, tác phẩm  đã dẫn dắt ta vào một thế giới của đời sống rộng mở, trùng phức, với lớp lớp suy tư chồng chất và vô số các hình ảnh, hình tượng đan dệt từ nhiều chất liệu đời sống, văn hóa, nghệ thuật, thơ ca, tôn giáo, tâm linh… Ở đó, những sự vật, con vật, con người hay hành động cụ thể thoắt trở thành một chỉ dẫn, một ám dụ siêu thực, huyền nhiệm.    

Lò Mổ không phải là một biểu tượng tượng tĩnh, bất động. Nó được mô tả như một cõi giao thoa giữa sự sống và cái chết, sự kết thúc và sự tái sinh, ánh sáng và bóng tối, cái xấu và cái đẹp, cái ác và cái thiện. Nó cũng được hình dung như một hành trình, một chuyến “Mộng du”, một “Sân ga thời gian”, điểm gặp gỡ giữa chiều đi và chiều đến, quá khứ, hiện tại và tương lai. Không - thời gian ấy vừa là một địa điểm thực tại (một Lò mổ có thực, ở một cánh đồng ngoại ô), vừa là một biểu tượng của cõi đời, cõi người bất định. Hành trình vào Lò Mổ cũng là hành trình đi vào cõi nhân gian đáng sợ, ở đó, cái tôi chủ thể “nhận ra một cái gì đó mà tôi chưa từng nhìn thấy, chưa từng xảy ra trước đó” và bản thể của anh ta bị lay động đến tận gốc rễ. Tương tự Dante trong trường ca Thần khúc, nhân vật Chàng có một vai trò đặc biệt. Xét về mặt nội dung, anh ta là người dẫn đường, kể chuyện, hướng dẫn độc giả. Xét về mặt cấu trúc, nhân vật này là yếu tố kết nối tất cả các hình tượng, nhân vật, câu chuyện, các lời thoại, các phần/ đoạn của trường ca vào một chỉnh thể, tạo nên sự liền hơi, liền mạch trong cảm xúc, giọng điệu tác phẩm.

3. Những biểu tượng thơ

 Đồ tể vừa là nhân vật liên quan trực tiếp đến Lò Mổ, đồng thời, là một hình tượng kép, cùng lúc đóng nhiều vai. Anh ta vừa là kẻ giết bò, như một nghề nghiệp, nhưng đồng thời, anh ta không ngừng suy tư về hành động của mình, suy tư về cách anh ta tồn tại và ý nghĩa của điều đó. Nhận thức về mình như một đồ tể, một kẻ sát sinh, kẻ giết hại những con vật vô tội khiến anh ta “đau đớn”, “kinh hãi”, “buồn nôn”. Trải nghiệm chết chóc luôn là trải nghiệm kinh hoàng, ngay cả với kẻ làm nghề đồ tể: “Con bò đầu tiên bị giết. Mờ mịt chân trời đỏ trên cặp kính. Một làng quê xa như hóa đá. Bão gió. Sóng Thần. Những mái chèo mai táng đại dương. Người đàn bà sinh ra chàng đi tắt qua biển”. Không khí chết chóc, như một ám ảnh kinh dị, thông qua các chi tiết, hình ảnh như ruồi, tiếng rống, máu, sự tanh tưởi… phủ ngập không gian Lò Mổ (hình ảnh máu ở đây gợi nhớ trường ca Thời tái chế của Mai Văn Phấn hoặc nhiều bài thơ Nguyễn Bình Phương). Ngay cả hoa hồng, như một biểu tượng của tình yêu, ở đây, cũng được hình dung như những bông hoa máu (chi tiết này gợi nhớ thung lũng hoa hồng ma ngào ngạt mê mụ mọc lên từ xác người trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh). Nhưng mặt khác, từ góc nhìn phổ quát, anh ta nhận thấy một sự thật chung cục, kẻ giết và bị giết, kẻ cầm búa và kẻ phải chịu nhát búa chí mạng, tất cả đều chung một định mệnh tàn khốc: “nhát búa của số phận/ Than khóc và chạy trốn chẳng làm được gì”.

Chân dung Đồ tể được khắc họa ngay ở chương thứ nhất, với một câu hỏi gốc rễ: Có phải chúng ta tội lỗi? Ám ảnh tội lỗi đeo đẳng anh ta từ công việc hàng ngày nơi lò mổ đã trở thành sự chất vấn về bản chất hiện sinh và hiện hữu:

Đôi mắt chúng ta được đưa lên đoạn đầu đài

Chúng ta đã phạm tội trong cách nhìn

 

Cái lưỡi của chúng ta được dẫn lên máy chém

Chúng ta đã phạm tội trong phát âm

 

Bộ óc của chúng ta được lấy ra khỏi hộp sọ

Và đặt lên giàn hỏa thiêu

Chúng ta phạm tội trong ý nghĩ

 

Đôi chân chúng ta bị chôn sống

Chúng ta phạm tội trong cách đi

 

Hai bàn tay chúng ta bị rút móng từng ngón

Chúng ta phạm tội trong viết và kí

 

Đừng tha thứ tôi

(Lời cầu xin)

Hành trình dấn sâu vào Lò Mổ cũng là hành trình tinh thần, tâm hồn của Đồ tể bị hủy hoại. Từ những cuộc đối thoại với con người (thường là vô vọng, giống như nói với nhau qua vách tường kính, mỗi người theo đuổi một ngôn ngữ, một ý tưởng không liên quan) và với con vật (ruồi, bò…) và Đấng Cao Cả (Người Mẹ, Người Cha thiêng liêng; Chúa Giêsu…), anh ta vật vã tìm kiếm lí do của sự sống, cái chết, lí do sự tồn tại của chính mình, và nhận ra chỉ có thể vượt qua tội lỗi, nỗi đau đớn và sự hủy hoại từ bên trong bằng Đức tin, Hy vọng và Tình yêu thương trong khi bạn đường/ đời của anh ta (Nàng) đã trốn chạy, vì không thể có được sức mạnh tinh thần nội tại đó.

Đồ tể hiện ra như một con người cô đơn tuyệt đối. Ám ảnh tội lỗi vây phủ đời sống, phá hủy mọi mối quan hệ giữa anh ta và thế giới. Hãy chú ý đến mối quan hệ giữa Chàng và Nàng, một mối quan hệ đôi lứa lạ lùng: có xót thương, có thấu hiểu, nhưng dường như thiếu hẳn sự chia sẻ. Mỗi người ôm một nỗi đau câm lặng và câu hỏi tự vấn về đời mình. Hãy chú ý mối quan hệ giữa anh ta và chủ nhà trọ/ chủ lò mổ. Nếu hiểu nhân vật chủ nhà trọ/ chủ lò mổ là hiện thân của cái ác, là kẻ tìm thấy sự hoan lạc trong giết chóc, xem đó như một thú vui tàn bạo, thì ngược lại, Chàng luôn nhìn thấy ở đó nỗi đau, sự bất lực, kinh hãi, tuyệt vọng và buộc mình phải mở to mắt tìm kiếm câu trả lời cho hành động này. Đó là sự khác biệt căn bản giữa Chàng và chủ lò mổ và cùng những đồ tể khác, những kẻ “chìm ngập trong đói nghèo, trong rượu, trong u mê”, “trong những đức hạnh giả dối và những tư tưởng rối loạn”. Bởi vậy, như một nghịch lí dễ hiểu, không phải con người, mà là động vật, những động vật bị chính anh ta sát hại, mới thực sự là kẻ thấu hiểu anh ta: “Đấy là một con người đau khổ. Chàng mang căn bệnh bất trắc của tâm hồn. Khi chàng quai búa vào đầu chúng ta cũng là lúc chàng quai búa vào chính đầu chàng”. Thực ra, sở dĩ có sự thấu hiểu này là bởi vì Đồ tể đã đặt mình vào vị trí những kẻ nằm dưới búa. Từ góc độ đó, anh ta không còn là Đồ tể, mà còn là kẻ đồng hành, kẻ chịu nạn, kẻ mang trong trái tim sự mẫn cảm, niềm trắc ẩn và cả sự cam chịu. Nhưng điều anh ta thiếu chính là tinh thần chấp nhận số phận bình thản, do đó, đầy can đảm, của những con bò. Đồ tể luôn luôn phải đối diện với sự giằng xé, bất an trong sâu thẳm nội tâm, với những câu hỏi ám ảnh:

Có phải chúng ta tội lỗi?

-  Ta đang đi về đâu?

- Ai đang gọi ta

        trên những cánh đồng?

- Ai đang đợi chờ ta

        nơi bến bờ cuối cùng của đau khổ?

- Tại sao tôi không rời bỏ nơi này?

- Phải chăng cái chết là trò chơi cuối cùng của chúng ta?...

Ở chương 7, cuộc đối thoại giả tưởng giữa Đồ tể với Chúa bộc lộ một triết lí ý nghĩa: Con người phải biết tự đối diện với mình, với ý thức về tội lỗi, với bổn phận, trách nhiệm và cả sự lựa chọn hành động của cá nhân: “Chỉ khi con phán xét chính con thì những con rắn trong con sẽ biến mất”. Chúa luôn ở trong con người, khi con người là chính mình, khi “biết ngước mắt lên cao bởi nỗi sợ hãi”; biết “tự đứng lên và bước qua bóng tối”, “biết đi về phía ánh sáng”. “Ánh sáng và Tự do bắt đầu từ chính nơi con đứng dậy và bước đi trong bóng tối”.

Suy tư về nỗi đau của những số phận bất hạnh, về niềm kinh hãi trước cái ác, và sự bất lực, tuyệt vọng của cá nhân, đó là một khởi nguồn của triết học, tôn giáo và thi ca. Điều đó giải thích vì sao Đồ tể còn hiện diện trong tư cách một người viết, một nghệ sĩ, người có khả năng phát hiện ra cái đẹp trong chính những bi kịch đời sống. Anh ta hình dung về bản thân như “một Pharaon. Được mai táng trong hầm mộ cô đơn với toàn bộ ngôn từ của chàng” và hành động viết được xem như là sự kết nối thiêng liêng với linh hồn thế giới mà chính anh ta đã sát hại. Viết, cũng là để kết nối, khai mở chính mình, tạo ra những khả thể tồn tại đạo đức, xã hội, văn hóa, thi ca khác với thực tại đẫm máu trước mắt. Nó tạo nên muôn vàn phác thảo tinh thần trên hành trình con người đi tìm chính mình và bản chất tối hậu của thực tại:

Chàng là ông Vua

Của Bi kịch và Cô độc

Bước nghiêm trang trong bản hòa tấu dàn kèn đồng

Không khúc biệt ly

Không lời tuyên thệ

Không lời chúc phúc

 

Lặng câm.

Khi viết về số phận và định mệnh nghệ sĩ, rõ ràng Nguyễn Quang Thiều vẫn chịu ảnh hưởng của những cách nhìn/ viết quen thuộc trước đó, chẳng hạn Ch. Baudelaire miêu tả người nghệ sĩ giống như con hải âu, lớn lao, uy dũng nhưng bị xã hội ghẻ lạnh và không hiểu thấu; hoặc loài “thi sĩ điên” trong quan niệm thơ của Hàn Mặc Tử… Có điều ông luôn nhấn mạnh tư cách kép, phức tạp của hình tượng này. Anh ta không phải là kẻ ngoài cuộc Lò Mổ, mà là kẻ sống trải trong đó, nhập thân trong tất cả các vai: đồ tể, tình nhân, nạn nhân, chứng nhân..., và trên những kinh nghiệm và siêu nghiệm, từ đáy sâu địa ngục Lò Mổ, cất lên tiếng nói. Đó là sự hòa giọng của vô số tiếng nói, cuộc đời, tư cách, thân phận: “Đã có lúc chàng muốn chui vào tấm da bò/ Để bước đến nhận một nhát búa rung trên đỉnh đầu…/ Để máu rời bỏ thân xác chàng/ Như một đập nước bị vỡ/ Để chàng rời bỏ thế gian nặng nề/ Những khổ đau và tuyệt vọng”. Giọng trong giọng. Lời trong lời. Giọng nói ấy, âm thanh ấy, là một biểu tượng. Nó là âm thanh của tưởng tượng nhưng còn thực hơn cả hiện thực.

   Con bò và Đồ tể là một cặp hình tượng quan trọng, mở ra chủ đề và cảm thức tôn giáo đậm nét trong bản trường ca này. Chương 18 nói về một đêm Giáng Sinh trong lò mổ, khi chỉ còn duy nhất Đồ tể đối diện với con bò cuối cùng phải giết. Đó là một định mệnh. Định mệnh của kẻ bị giết và kẻ phải giết. Một định mệnh đau đớn:

Đôi mắt mênh mông và thẳm sâu con bò nhìn chàng

Nó đã chọn chàng, đã gọi chàng và đợi chàng

Giờ đây trên thế gian tối đen chỉ còn con bò và chàng

Chỉ có hai kẻ được giao sứ mệnh thực hiện cái chết cuối cùng trong đêm giá lạnh này.

Hình tượng những con bò xuất hiện ngay từ chương đầu tiên và xuyên suốt trong cả 18 chương. Đó là hình tượng nạn nhân, kẻ bị giết, kẻ phải chịu đựng cái chết dưới tay Đồ tể. Nhưng đó cũng là hình tượng đại diện cho số đông nhân loại, những kẻ lao khổ, nhẫn nại, lặng lẽ trên cánh đồng, “tạo nên đời sống của những đường cày, của hạt giống, của ngũ cốc, của nước và nắng”, để “làm cho cánh đồng rộng mãi”. Họ đi đến định mệnh của mình với một thái độ chấp nhận, cam chịu bình thản: “Những bước đi trên đất đai nhọc nhằn nhưng đó là định mệnh của chúng ta”. Và: “Chúng ta chưa từng yêu cầu phải trói. Chúng ta chưa từng yêu cầu phải bịt mắt. Chúng ta không kí vào biên bản trước khi chết. Chúng ta đâu phải tử tù. Chúng ta là những con bò của Tự do và Đức tin đi qua thế gian. Để về tới cánh đồng bất diệt.” Chính trong sự cam chịu bình thản đó, nhà thơ nhận thấy một sức mạnh tinh thần lạ lùng. Sự mô tả của tác giả tập trung vào một con bò đặc biệt. Nó đặc biệt từ dáng vẻ “cường tráng và kiêu hãnh”. Đặc biệt trong cái chết như một nghi lễ: “cái khoáy lông trên đầu con bò như bông hoa đang nở. Con bò quỵ xuống như làm lễ”. Đặc biệt trong cách nó lặng lẽ đối diện với cái chết, với cái đầu bị cắt và vẫn mang “đôi mắt/ Của một trẻ sơ sinh/ Tinh khôi trong tã trắng”. Sinh vật ấy thấu hiểu bổn phận, nghĩa vụ và chấp nhận kết cục trong Lò Mổ với tất cả sự thanh thản. Trong cuộc đối thoại như ảo giác, người đồ tể nhận ra bài ca của linh hồn con bò, cũng là linh hồn Cõi Thiêng, từ một “giọng nói u huyền trong cái chết”:

Con để lại tấm da

Trĩu buồn manh áo cũ

Con để lại tiếng rống

Reo ca trên cánh đồng

Con để lại cổ họng

Lưỡi dao buồn ngủ sâu

Cái chết của con bò được hình dung như một nghi lễ, một “nghi lễ linh thiêng trên mặt đất đau buồn”. Nhưng người được cứu chuộc lại là Đồ tể, và được cứu chuộc bởi chính kẻ anh ta đã giết. Phải chăng, đây là một hình tượng ẩn dụ cho sự hy tế của Chúa Giêsu trên thập giá? 

     Chàng và Nàng (một cách định danh mang tính ước lệ), gợi nên hình ảnh cặp đôi nguyên thủy Adam và Eva xuất phát từ Sách Sáng Thế, chương đầu tiên của Cựu Ước trong Kinh Thánh. Tên chương 1 - Có phải chúng ta tội lỗi, là một sự kết nối dễ nhận ra với câu chuyện trong Kitô giáo, câu chuyện tượng trưng cho “Tội tổ tông” - tội lỗi đầu tiên của loài người khi bất tuân Thiên Chúa. Tội lỗi ở đây vừa là một ám ảnh nguyên thủy, trong vô thức, đồng thời, là một cảm giác đời sống thực tế, khi vây phủ con người là “máu bò dính trong tóc và đông như thạch trong kẽ móng tay”, “hơi nóng của máu hầm hập/ mê man và phủ ngập”; là giấc ngủ “trong nghĩa địa. Bánh xe tang lăn trên con đường đọng nước”; là cảm giác “buồn nôn”, “đau khổ”, “sợ hãi”, “kinh hãi”; cảm giác về một thế giới mà “tất cả như đã chết”. Đấy là một không - thời gian “không của Thế gian không của Thiên Đường”. Là thế giới của Lò Mổ. Của Địa ngục. Ở đó, mỗi cá nhân sống với sự cô đơn, u uất, tàn héo của tâm hồn. Và sống với nghịch cảnh: có đôi có cặp nhưng tuyệt đối cô đơn, vô cảm. Đời sống của họ là nghĩa địa. Vây quanh họ là máu và chết chóc. Giữa họ là kẻ thứ ba, một "kẻ lạ cưỡng dâm", một bức tường thép.

Vật liệu kết dệt nên đời sống của Chàng và Nàng là máu, sự giết chóc và chết chóc. Là Lò Mổ, con bò bị giết, nghĩa địa, bánh xe tang, cơn buồn nôn, kẻ lạ. Nhưng cấu tạo nên đời sống đó còn là những vật liệu trừu tượng: “ngôn ngữ suy đồi”, “cô tịch và cách biệt”, “đau khổ”, “sợ hãi”, “kinh hãi”, một “kẻ thứ ba” - một dòng nước giá lạnh, một ngọn lửa pha đầy khói, một đạo đức, một món nguội, một con dao, một tòa án, một ân hận… Giữa những lời đối thoại mà thực chất là độc thoại, những mảnh vụn nội tâm vỡ ra và dội lại trong những bức tường tử khí, lặng ngắt, giống như trong kịch phi lí, Chàng và Nàng thực chất cũng là một thứ vật liệu tượng trưng. Mỗi người một khối cô đơn sừng sững. Bất khả giao tiếp, với người khác, và với chính mình. Hoàn toàn mất hết kết nối.

Bầy ruồi gây ấn tượng nghịch dị mạnh mẽ. Thực ra, chúng đã xuất hiện khá nhiều lần trước đó trong văn học, ví dụ trong vở kịch triết học Những ruồi (Jean Paul Sartre), tiểu thuyết Chúa ruồi của William Golding, Con ruồi của William Blake, hoặc ruồi trong thơ Vũ Thành Sơn…

Trong trường ca Lò Mổ, hình tượng ruồi xuất hiện lần thứ nhất ở chương 3 - Bầy ruồi. Chương này dài 10 trang và được trình bày theo hình thức ngôn ngữ thị giác. Có những trang dày đặc chữ ruồi (trang 26, 27), gợi hình ảnh bầy ruồi bu kín không gian. Có trang được bố trí theo lối gián cách, những chữ/ hình ruồi rải rác trên trang giấy hoặc trình bày theo hình thức hiệu ứng chuyển động của cánh bay (trang 25, 39). Cũng có khi, chữ R được cách điệu theo hình ảnh những con ruồi. Cách trình bày văn bản theo hình thức thơ - hình họa này, đã xuất hiện trước đó, chẳng hạn trong thơ G. Apollinaire, hoặc Pedro Xisto... Ở Việt Nam, cách trình bày này đã xuất hiện trong thơ của Trần Dần, Đặng Đình Hưng, hoặc gần hơn, thơ của Từ Huy, Nguyễn Thị Thúy Hạnh… Dẫu vậy, tôi vẫn thấy thú vị với cách trình bày này. Không chỉ lạ hóa ngôn ngữ thơ, nó gợi ra ấn tượng trực quan về thế giới của Lò Mổ, bị xâm chiếm, vây bủa bởi bầy ruồi, đại diện cho sự chết chóc, thối rữa, bẩn thỉu. Chúng bao bọc cả người sống, cả hoa hồng và tình yêu (Hoa hồng phải sống) lẫn xác chết (Phán xử). Tuy nhiên, trong Lò Mổ, ruồi cũng là một biểu tượng đa nghĩa. Chúng là những kẻ tỉnh táo,  sòng phẳng và đầy ý thức. Chúng “phán xử công bằng với tất cả những xác chết”. Chúng “biết hướng tới vẻ đẹp”. Và nhận thức rất rõ về nỗi đau: “Chúng ta có tất cả… nhưng chúng ta chẳng có được giấc mơ. Đấy là nỗi đau đớn của chúng ta”. Cũng như Đồ tể, chúng có một trách nhiệm, một sứ mệnh thực tiễn phải gánh vác:

Chúng ta là những chữ cái

Những chữ cái nguệch ngoạc

Viết cả ngày lẫn đêm

Chúng ta suốt đời phải xếp chữ

Để loại người đọc ra bẩn thỉu

Đọc ra trong sạch

Đọc ra tởm lợm

Đọc ra mù lòa

Không chỉ là biểu tượng của cái chết, sự thối rữa, bẩn thỉu, cái ác, theo cách mô tả này, bầy ruồi còn là hiện thân của sự công chính, của Thiên thần trừng phạt. 

 4. Chủ đề, cấu trúc và thủ pháp

Lò Mổ là một phức hợp chủ đề, thể hiện qua nhiều chương và trường đoạn, gắn liền với cái nhìn suy tư và những câu hỏi chất vấn không ngừng của người dẫn chuyện về nhiều vấn đề của đời sống. Ví dụ chủ đề tội lỗi (chương 1), chủ đề về tội ác và trừng phạt (chương 2, chương 16), chủ đề thời gian (chương 4), chủ đề tình yêu và cái chết (chương 5, 11), chủ đề ảo ảnh và thực tại tối hậu (chương 8), chủ đề tự do (chương 14), chủ đề sự sống vĩnh cửu (chương 13); chủ đề sáng tạo nghệ thuật (chương 10); chủ đề đức tin, cõi Thiêng và sự giải thoát (chương 7, 17, 18)… Đây là những chủ đề mang tính triết học, mĩ học, có khả năng gợi nên sự suy nghĩ, liên tưởng và nhu cầu đối thoại đa chiều từ phía độc giả. Với tôi, hệ chủ đề của Lò Mổ là một trong những phương diện gợi hứng thú đọc nhất. Trong thơ Việt Nam hiện đại, tôi hiếm khi gặp được tác phẩm có lối tư duy trừu tượng và cảm hứng nghiêng về những chủ đề triết luận tương tự.

Nhìn chung, cấu trúc Lò Mổ khá chặt chẽ. Trường ca gồm 120 trang, được chia thành 18 chương, tương ứng với hành trình tinh thần của nhân vật Đồ tể/ người kể chuyện trong văn bản, gắn với các điểm dừng suy tư khác nhau. Đấy là một cấu trúc biểu tượng, mô tả hành trình của con người đi từ Lò Mổ đến Thánh Đường, từ ý thức tội lỗi tới Đức tin và hành động thức tỉnh. Cấu trúc thơ mang tính biểu tượng tôn giáo này tạo nên tính chất nhất quán từ cách tổ chức văn bản đến hình tượng, hình ảnh và ngôn ngữ, giọng điệu… Về cơ bản, điểm nhìn trong trường ca là của người kể chuyện/ Đồ tể.  Sự thay đổi, chuyển dịch điểm nhìn, nếu có (ví dụ ở Chương 12, 13, điểm nhìn của người kể chuyển sang điểm nhìn của những con bò) nhằm để nhấn mạnh khả năng hóa thân, đồng cảm sâu sắc của người kể với nỗi đau của kẻ khác, điều cốt tử tạo nên sự thức tỉnh bên trong của anh ta.

Thủ pháp tương phản được tác giả sử dụng khá thường xuyên, trên nhiều cấp độ: từ ngữ, hình ảnh, hình tượng, kết cấu… Ví dụ, ở hình tượng con bò, đó là sự đối lập giữa hình ảnh phân, nước tiểu, máu, tiếng rống hấp hối và một bên là hình ảnh “đôi mắt mở to dịu dàng. Buồn bã. Không bao giờ rơi lệ”. Nhìn rộng ra, là sự đối lập giữa quang cảnh lò mổ, máu chảy ròng ròng, những chiếc đầu bò bị cắt rời và những tấm da bò bị lột cùng hơi máu tanh tưởi, “hầm hập” và không gian thiên nhiên khoáng đạt, tinh khôi, với “một ban mai tĩnh lặng”, “ô cửa mùa thu bạt ngàn mây trắng”. Đó là một cảnh tượng, đúng hơn, một tổ hợp cảnh tượng nghịch dị, mở đầu cho thiên bi kịch của đời sống:

Ô cửa mùa thu bạt ngàn mây trắng

Mây chống lại sự hình dung của chàng

 

Đấy dòng sông

đấy cây

đấy bồ câu

đấy xác chết

đấy hoa nở

đấy mây

 

Ô cửa mùa thu…

Xa xôi. Thổn thức. Mê dụ. Cần cảnh giác.

Cùng với tương phản là phóng đại, một thủ pháp nghệ thuật thường gặp trong sử thi cổ đại. Sự vật, sự việc và con người, qua thủ pháp này, được nâng tầm, trở nên lớn lao, phi thường, khác thường… Ở đây, phóng đại cũng được sử dụng nhằm tạo nên tính chất lớn lao, kì vĩ của hình tượng thế giới và con người. Nhưng không chỉ phóng đại sự lớn lao trong kích thước vật lí, tác giả đặc biệt chú ý phóng đại sự lớn lao trong kích thước tinh thần, tư tưởng. Đó là một chiều kích không - thời gian siêu nhiên và siêu hình, hàm chứa một sức mạnh trường cửu, huyền nhiệm, ôm chứa bí mật của sự sống vĩnh cửu. Có thể nói, thủ pháp này đã tỏ rõ hiệu quả trong việc kiến tạo nên một thế giới thơ lớn lao, kì vĩ, siêu thực. Hãy đọc những câu thơ của tác giả viết về “Cánh đồng bất diệt”:

-  Những lưỡi cày sẽ cất tiếng reo vang

Những hạt giống vẫn kiên nhẫn đợi

Những ban mai của thế gian vẫn lên tiếng gọi

Trên những dãy chuồng đầy bóng tối và bầy ruồi u ám

Chúng ta lần lượt ra đi như nước chảy trong những dòng sông ra bể

- Những hạt giống của giấc mơ

Gieo trên những cánh đồng da thịt

Và trong những cơn mưa của tháng Giêng nước mắt

Trong những cơn mưa của tháng Hai máu

Chầm chậm mọc lên

Theo cách mọc những quả đồi

Trong không - thời gian kì vĩ ấy, con người Thức tỉnh và Tự do, qua những hình ảnh mô tả, so sánh mang tính phóng đại, cường điệu, hiện lên một cách tráng lệ, huy hoàng, như những vị thần trong sử thi cổ xưa:

Chàng chạy như một ngọn gió đầu hạ. Dội vang, một ban mai lộng lẫy tự do.

Tóc chàng cuồn cuộn. Lá cờ của bình minh.

Hai cánh tay chàng đập vang bầu trời.

Cặp chân chàng, chân ngựa hoang phi nước đại trên thảo nguyên

Hàm răng chàng, hai chuỗi ngọc đẹp nhất thế gian

Mắt chàng, hai ngôi sao rực cháy cả ban ngày

Da thịt chàng, đất đai giàu phù sa trên những cánh đồng dọc đôi bờ con sông lớn.

 Thủ pháp song hành, trùng điệp cũng được tác giả sử dụng phổ biến trong cách tổ chức hình tượng và lời thơ. Trong tác phẩm, xuất hiện nhiều cặp hình ảnh/ hình tượng sóng đôi mang tính tượng trưng, ví dụ Lò Mổ - Thánh Đường; Chàng - Nàng; Mẹ - Cha, ánh sáng - bóng tối; thiên đường - địa ngục… Hình thức kịch hóa, qua cấu trúc đối thoại, cũng tạo ra nhịp điệu và những ý nghĩa thơ mới. Ví dụ cuộc đối thoại giữa Chàng và Nàng ở chương 9. Ở đây, đối thoại thực chất là độc thoại, hai lời thoại song song, phân mảnh, không có sự liên kết nào. (Một gợi ý thử nghiệm thú vị: tách lời thoại từng nhân vật, ta sẽ có những bài thơ trữ tình hoàn toàn độc lập). Cách tổ chức lời thơ này góp phần nhấn mạnh tính chất cô lập, phân rã, cô đơn toàn phần, tuyệt đối của con người hiện đại.

Điệp (từ ngữ, hình ảnh, cú pháp, cấu trúc…) được Nguyễn Quang Thiều sử dụng thường xuyên, tạo nên nhịp điệu và giọng điệu mạnh mẽ, trang trọng, đầy âm vang:

- Gọi chàng - loài thú ăn thịt dụ con mồi

Gọi chàng - trăng gọi thủy triều

Gọi chàng - tiếng cổ xưa thức dậy

 - Đỏ tối những bức tường. Đỏ tối chum sánh. Đỏ tối bóng đèn. Đỏ tối thớt. Đỏ tối dao. Đỏ tối chìa khóa. Đỏ tối gốc cây gần. Đỏ tối chảo luộc. Đỏ tối xe vận chuyển. Đỏ tối tiền trả công. Đỏ tối biên lai. Đỏ tối chứng minh thư. Đỏ tối những đứa trẻ.

- Những chiếc búa như đúc bằng máu. Giữa trung tâm thành phố. Một bức tường dựng lên. Một con bò rướn người. Một chiếc búa vung cao. Một xô máu bò nghiêng đổ. Những bầy quạ bóng đêm. Uống mê man. Gào thét mê man. Ngửa cổ hát mê man. Chúng bay mộng du trong cơn khát. Tất cả rừng rực đỏ. Thành phố của những tiếng rống. Cửa hiệu tràn ngập những búa. 

- Tự do làm cho chàng bơi được trong nước như cá

Tự do làm cho chàng bay trên bầu trời như chim

Tự do làm cho chàng tỏa sáng trong lửa mà không bị thiêu cháy

Tự do làm cho chàng tan trong đất mà không phải mục nát

Tự do làm cho chàng đã chết vẫn trò chuyện được với thế gian

Lò Mổ bao gồm nhiều đại cảnh không - thời gian rộng lớn, không ngừng chuyển hóa, thay đổi đồng thời vẫn nhất quán trong mạch, giọng chung. Đấy không chỉ là không gian bên ngoài mà còn là không gian bên trong. Ở đó, đời sống tinh thần, tâm linh của con người cũng phức tạp, lớn lao và kì vĩ không kém vũ trụ. Không gian và thời gian ấy thường được tác giả chạm khắc bằng “âm nhạc siêu thực” và “ánh sáng lộng lẫy”. Nhà thơ cũng sử dụng nhiều thủ pháp để phi thường hóa, lí tưởng hóa sự vật, sự việc và con người. Câu thơ mang xu hướng văn xuôi hóa, thường kéo dài, chia làm nhiều ngữ đoạn, chạm khắc một cách tỉ mỉ, chi tiết hình ảnh, hình tượng. Điều này góp phần tạo nên nhịp điệu riêng trong thơ ông: mạnh mẽ, bay bổng, miên man, trùng điệp.

5. Vật liệu thơ và mĩ học của cái đẹp “khủng khiếp”

Vật liệu của thơ, từ góc nhìn thi pháp học, được hiểu là các nguyên liệu ban đầu, bao gồm ngôn ngữ, hình ảnh và các yếu tố hiện thực mà nhà thơ sử dụng để sáng tạo tác phẩm. Như có lần đã phân tích ở trên, vật liệu của Lò Mổ thực chất bao gồm nhiều loại. Nhóm vật liệu thứ nhất, hiển lộ ở bề mặt văn bản, đó là lớp từ ngữ, hình ảnh mang tính tả thực về các sự vật, sự việc vốn bị xem là tầm thường hoặc bất nhã (lò mổ, ruồi, bò, máu, cái đầu bò bị cắt, tiếng rên, rống…); hoặc lớp từ ngữ, hình ảnh chỉ bạo lực, tình dục, các bộ phận hạ thể (giết chóc, cưỡng dâm, bộ phận sinh dục…). Phần lớn các ý kiến phản đối tập trung vào lớp vật liệu này. Tuy vậy, bên cạnh chúng, còn có nhóm vật liệu thứ hai, thường được mặc định là lớp ngôn ngữ thơ, ngôn ngữ nghệ thuật, ví dụ: mùa thu, cánh đồng, mây trắng, hoa hồng, giấc mơ, thi ca… Đồng thời, tác giả cũng sử dụng phổ biến các "vật liệu" ngôn từ, hình ảnh của tôn giáo, cụ thể là Kito giáo, như linh mục, Thánh đường, Ngày Phán xử, Chúa Giêsu… nhằm tạo nên màu sắc huyền nhiệm và sự hiện diện của Cõi Thiêng trong tâm thức con người. Điều này cho thấy Nguyễn Quang Thiều chịu ảnh hưởng của mĩ học Kito giáo khá đậm nét.

Nếu tồn tại ngoài tác phẩm, các loại vật liệu này mang những đặc tính hết sức khác nhau, nếu không nói là hoàn toàn xa lạ. Tuy nhiên, khi đưa vào Lò Mổ, chúng đã được tác giả tổ chức, sắp xếp lại theo một trật tự mới. Trật tự ấy xuất phát từ một kiểu tư duy, một cách nhận thức, lí giải về đời sống và những nguyên tắc, phương thức tổ chức văn bản, hình tượng mang tính đặc thù. Có thể thấy phần nào tư tưởng nhân sinh, thẩm mĩ của Nguyễn Quang Thiều trong lời mở đầu: “Tinh thần mang theo trong Lò Mổ là một câu hỏi: “đời sống tôi đang sống có thực là một đời sống?”… Đó là câu hỏi của tôi và có thể tôi không trả lời được câu hỏi đó. Nhưng với tôi, điều quan trọng nhất là tôi đã cất tiếng hỏi".  Nhưng đấy chỉ là phần chóp của tảng băng trôi. Phần lớn quan niệm, tư tưởng của tác giả ẩn sau thế giới ngôn từ, hình tượng trong văn bản và muốn "đọc" chúng, ta không có cách nào khác ngoài việc tự mình dấn bước vào Lò Mổ. Không chỉ tồn tại như những thành tố của tác phẩm, nhãn quan, quan niệm nghệ thuật này chi phối, gắn kết các yếu tố tương thích hoặc loại bỏ các yếu tố lạc hệ thống, tạo nên chỉnh thể tác phẩm. Dưới áp lực của cấu trúc chỉnh thể, những vật liệu mang tính tả thực ban đầu được "lạ hóa", được cấp thêm những lớp nghĩa mới, rộng mở hơn, thậm chí hoàn toàn biến đổi nghĩa/ ý nghĩa so với ban đầu. Ta sẽ nhận ra điều này khi quan sát sự thay đổi sắc thái ý nghĩa của các yếu tố vật liệu như ruồi, hay đàn bò, máu... trong bản trường ca. 

Lò Mổ gây tranh cãi bởi những vật liệu có vẻ tầm thường, xấu xa, bất nhã, và phi thơ của nó. Đó là một nghịch lí, bởi sự thực là Nguyễn Quang Thiều rất quan tâm đến cái đẹp, trong nghệ thuật lẫn đời sống. Ông có nhiều bài thơ viết về chủ đề này, ví dụ Cái đẹp, Sự chuyển động của cái đẹp… Có thể giải thích thế nào về nghịch lí này? Theo tôi, điều này trước hết xuất phát từ cảm quan đời sống và tư duy nghệ thuật của tác giả. Là một người nặng lòng với văn hóa gốc rễ (mà Làng Chùa của ông là một biểu tượng), Nguyễn Quang Thiều nhận thấy nhiều giá trị nền tảng đang băng hoại từng ngày trong đời sống hiện đại. Ám ảnh về thực tại đầy những tai ương và hiểm họa đã đẩy ông tới những vật liệu thi ca tương ứng: máu, chết chóc, bóng tối, bầy ruồi... Nhưng mặt khác, với cảm quan hiện đại chủ nghĩa, ông phát hiện ra trong chính cái xấu, cái ác những vẻ đẹp kì lạ, khác thường, đầy ám ảnh, thậm chí kinh dị nhưng không phải không gây choáng ngợp. Tương tự tác phẩm Hoa ác của Ch. Baudelaire, mĩ cảm hiện đại chủ nghĩa cho Nguyễn Quang Thiều nhận ra, bên cạnh vẻ đẹp của những đám mây mùa thu là vẻ đẹp của những con bò, của ruồi nhặng. Của máu và chết chóc. Vẻ đẹp của cánh đồng “nở bạt ngàn những bông hoa máu” hay “lưỡi dao buồn ngủ sâu” trong cổ họng con bò đã chết… Nói cách khác, ông tìm thấy thi ca, cái đẹp từ trong những cơn ác mộng, những ám ảnh bi thương, trong tiếng gọi bí ẩn và âm u của cõi vô thức, trực giác. (Thực ra, đây là một cảm quan mĩ học khá quen thuộc trong thơ hiện đại chủ nghĩa phương Tây - cảm quan về cái đẹp nghịch dị, cái đẹp trong cái xấu, cái ác. Cách sử dụng vật liệu này cũng từng xuất hiện trong thơ Việt Nam trước đó, chẳng hạn trong sáng tác của Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Đinh Hùng…). Một cách tự nhiên, ông thấy cần xé bỏ những nhãn dán mặc định về "cái đẹp", "cái nên thơ" để phát hiện ra cái đẹp trong những diện mạo đối nghịch, đa chiều và đầy thách thức của nó. Như vậy, chọn vật liệu là một chuyện, quan trọng hơn là cách xử lí vật liệu. Nguyễn Quang Thiều đã xử lí những vật liệu (thường bị xem là) tầm thường, bất nhã bằng một tư duy và bút pháp hiện đại. Với cách xử lí đó, vật liệu không chỉ thay đổi về lượng, mà quan trọng hơn, thay đổi về phẩm tính. Chúng đem lại một chất thơ mới, lạ lùng, đậm tính tượng trưng và ám gợi:   

Đẹp khủng khiếp

Máu con vật trong nháy mắt liếm sạch lưỡi dao

Hơi nóng và máu hầm hập

Mê man và phủ ngập

… 

Bọn Đồ tể cắt con bò để lột da. Đôi mắt vẫn đẹp vậy. Lúc nhìn đôi mắt ấy, chàng thấy Thi ca đi qua. Có cái gì đó vừa đổi thay hơn mọi cuộc cách mạng trong chàng.

"Đẹp" và "khủng khiếp", hai cảm giác trái ngược này thường được Nguyễn Quang Thiều sử dụng thủ pháp phóng đại để đẩy tới đỉnh điểm - đỉnh điểm về cái đẹp và cái ác, sự tàn bạo. Tuy nhiên, trong cảm quan của nhà thơ, bên cạnh cái đẹp, cái ác, còn có cái thiện. Ông không chủ trương một cái đẹp duy mĩ, vô luân. Cái đẹp, với ông, luôn gắn với lòng thương, sự trắc ẩn và những giá trị đạo đức. Đó là lí do nhân vật người dẫn truyện/ trữ tình nhìn thấy đôi mắt bò cái “lặng lẽ và cô đơn/ khôi nguyên và huyền bí” - biểu tượng của cái đẹp và cái thiện tuyệt đối, lí tưởng, không thể bị xâm hại bởi cái ác và bạo lực - trên cái đầu con vật đã bị cắt rời đặt trên đá lạnh, giữa máu me, ruồi nhặng. Đấy là một sức mạnh tinh thần lớn lao, cao cả, mang tính siêu linh, vượt lên cái chết, sự tàn hoại và cái xấu, cái ác. Lò Mổ đã hiển lộ một thế giới tượng trưng, ở đó, ta có thể tìm thấy thơ/ tính thơ trong vẻ đẹp, tình yêu và cả trong nỗi đau, sự tuyệt vọng hay cái chết. Đấy là thế giới của những ám ảnh, những cơn ác mộng, đẹp một cách "đau đớn, bi thương, kì vĩ”.

6. Cái Bi, đức tin và sự cứu rỗi

Có thể nói, cái Bi, như một phạm trù mĩ học, là một phương diện đặc thù tạo nên thế giới nghệ thuật của Lò Mổ. Ý thức về cái Bi, trong trường ca này, trở thành nền tảng của sự tồn tại, thể hiện qua việc con người nhận thức thực tại như một lò sát sinh đầy phi nhân và phi lí, nhưng không thể chối bỏ. Điều này tạo ra sắc thái bi kịch bao bọc đời sống con người, như một cái gì đó lạ lùng, đầy đe dọa và không thể trốn thoát.

Trong thế giới của Lò Mổ, con người ý thức sâu sắc về tội lỗi và khao khát tìm kiếm sự thật, đức tin, sự sám hối và giải thoát. Đấy không phải là quy luật được sắp đặt từ Đấng Tối Cao mà là một cuộc đấu tranh dai dẳng, không khoan nhượng với chính mình, từ bên trong, với “con rắn trong chính nội tâm cá nhân”. Kết quả của hành trình nội tâm ấy có khi chỉ là nỗi tuyệt vọng và cái chết. Nhưng thay vì trốn chạy hoặc chấp nhận sống trơ lì, vô cảm, con người chọn cách đối diện với nỗi đau, cảm giác tội lỗi, và sự bất toàn của chính tâm hồn mình. Hành trình con người đối mặt với tội lỗi cũng là hành trình dấn bước vào cõi Thiêng và sự phục thiện. Như vậy, cảm giác tội lỗi là căn nguyên của cái Bi nhưng cũng là điều nâng nhân cách của con người lên một tầm vóc nhân bản và cao thượng hơn. Sự giải thoát ấy, dưới ngòi bút của Nguyễn Quang Thiều, gắn liền với Đức tin và nhằm hướng tới một bản ngã Tự do, siêu việt:

- Nước mắt dựng nên lương tâm con. Nước mắt lau rửa tâm hồn con. Nước mắt dạy con biết chia sẻ. Nước mắt dạy con biết sám hối. Nước mắt dạy con biết tha thứ. Nước mắt dạy con biết hiến dâng. Nước mắt dạy con biết lau nước mắt cho chính con và người khác. Con biết khóc vì con còn biết sống. Con biết khóc vì con nhận thấy nước mắt làm gương mặt chúng ta đẹp lên như những Thiên thần.

- Nếu máu con chảy trong bóng tối

Mẹ sẽ nhìn thấy những vì sao

Nếu máu con chảy trên những cánh đồng

Mẹ sẽ nhìn thấy những mùa vàng

Nếu máu con chảy trên ngọn đồi

Mẹ sẽ nghe thấy bài ca

Và nơi đó có những con người được sinh ra

Từ một cái chết lớn.

Lò Mổ là một bản bi ca và đồng thời, cũng là một bản tráng ca về đời sống. Bởi trên cái nền Lò Mổ đầy bóng tối, giá lạnh và máu me, chết chóc, tác giả vẫn đủ niềm tin để rao giảng về cái Thiện và cái Đẹp, về Tự do và sức mạnh cứu rỗi của tình yêu thương. Đấy là một niềm tin đòi hỏi nhiều can đảm và lãng mạn. Tuy nhiên, việc tác giả để cho nhân vật của mình lựa chọn hướng tới tiếng gọi của đức tin, hy vọng và tình yêu, xem đó như giải pháp tối hậu cho tồn tại hữu thể, thì nhìn từ thực tại, tự thân giải pháp đó cũng bộc lộ rõ giới hạn. Khi nói đến việc tiếp cận cái Bi như một ý niệm quy giản, tư biện, Karl Jaspers đã cảnh báo: “Nó không mang lại sự lí giải toàn triệt về thế giới. Nó không thể làm chủ sự đau khổ phổ quát, nó không thể nắm bắt toàn bộ sự khủng khiếp và sự bất khả giải của kiếp làm người”. Và (về hướng giải thoát mang tính biểu tượng này), “khi làm như thế, thế giới quan này thu hẹp tầm nhìn của ta lại. Bởi trong chừng mực ta thấy mình được giải thoát thì thật ra, ta đã nhắm mắt trước những hố thẳm khủng khiếp của thực tại”[3].

7. Từ viết đến đọc

Là một trường ca hiện đại, sức hấp dẫn của Lò Mổ nằm trong sự gân guốc của ý tưởng, sự mãnh liệt của cảm xúc, trí tưởng tượng và sự lớn lao, kì vĩ của thế giới hình tượng. Đây cũng là kiểu tư duy và cấu trúc ngôn từ, hình tượng khá quen thuộc trong nhiều tác phẩm được Nguyễn Quang Thiều công bố trước đó, chẳng hạn Nhịp điệu châu thổ mới, Bài ca của những con chim đêm, Hồi tưởng, Nhân chứng của một cái chết, Cây Ánh Sáng… Nhưng phải cần đến thời gian và thời điểm để những nung nấu cảm xúc và suy ngẫm của tác giả bật lên thành một hình tượng dữ dội và ám ảnh - Lò Mổ.

Bản trường ca đã đem lại những thông điệp thực sự mạnh mẽ và đầy cảm hứng về đời sống, con người và sự sáng tạo. Tuy nhiên, việc coi trọng tính biểu tượng và nhu cầu chuyển tải những “thông điệp lớn” về tư tưởng trong thơ cũng có mặt trái của nó. Để nhấn mạnh các quan niệm, tư tưởng đạo đức - thẩm mĩ, như đã phân tích ở trên, Nguyễn Quang Thiều thường dùng đến thủ pháp cường điệu, tương phản, trùng điệp. Điều này kéo theo hệ quả là tính khoa trương, ồn ào và trùng lặp. Nhằm tạo nên tính ám gợi, tượng trưng ở một số chương, tác giả đã sử dụng lại một số hình ảnh ẩn dụ quen thuộc (ví dụ sân ga thời gian, hoa hồng phải sống, đôi mắt thiên thần, hầm mộ ngôn từ…), gây cảm giác hoa mĩ, thậm chí sáo rỗng (may mà các hình ảnh - tiêu đề này sẽ được mở rộng, cá biệt hóa trong nội dung các chương). Có khi ông dùng cấu trúc diễn đạt mới, nhưng lại gây cảm giác lắp ghép vụng về hoặc tù mù về nghĩa (chẳng hạn “những đàn ông”, “những đàn bà”, “con bò mùa thu”…). Xu hướng ưa thích tính từ và sự nhịp nhàng kéo theo những cách diễn đạt “nịnh tai” nhưng có phần dễ dãi và dài dòng (Hoan lạc và đắng cay. Thánh thiện và trần tục. Trong sáng và tăm tối. Nhân hậu và tàn ác. Rộng lượng và hẹp hòi…). Lò Mổ có nhịp điệu, giọng điệu đầy âm vang, thống thiết, có khả năng lôi cuốn người đọc nhanh chóng “nhập thân, nhập hồn” vào thế giới sử thi của tác phẩm. Tuy nhiên, mặt trái của nó là sự du dương và đơn điệu. Điều này, một khi bị đẩy quá ngưỡng, vô tình biến thơ trở thành diễn đàn độc thoại của tác giả. Về cơ bản, tâm thức sáng tạo của Nguyễn Quang Thiều vẫn là tâm thức hiện đại chủ nghĩa, dù ông có sử dụng một số thủ pháp hậu hiện đại như phân mảnh, cắt dán, liên văn bản... (Xin nói rõ, tôi xem đây là đặc điểm thi pháp tác giả, xuất phát từ một kiểu tư duy và quan niệm đặc thù, chứ hoàn toàn không có ý cho rằng hậu hiện đại thì “mới”, “hay” hơn hiện đại, bởi xét về mặt lịch sử, mỗi loại hình thơ đều có vị trí, giá trị và đóng góp của riêng mình). Bị/ được chi phối bởi tâm thức sáng tạo này, Lò Mổ chủ yếu mang giọng điệu bi ca trầm thống, thiếu vắng những sắc thái như mỉa mai, châm biếm, nhạo báng, giễu nhại… Nó kêu gọi con người nhập vào từ trường của nó hơn là khiêu khích, nhạo báng, chối bỏ. Nó lay tỉnh, giục giã hơn là gây hấn, phản tỉnh. Thực tế, trong trường ca này (và phần nhiều tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều), tham vọng hướng tới một “đại tự sự”, một “giấc mơ lớn”, “bài ca lớn” về thế giới và con người bộc lộ rất rõ. Tính chất khái quát, tượng trưng này sẽ xóa mờ đi tinh thần phản biện xã hội trực diện cần thiết, đem lại cảm giác như đấy là câu chuyện của vĩnh cửu, của muôn đời, không liên quan gì đến cuộc đời trước mắt của người viết và người đọc. Tách riêng ra, với tư cách một cấu trúc văn bản độc lập, quả thực Lò Mổ có nhiều ưu điểm về mặt tư tưởng, thi pháp. Tuy vậy, khi đặt trong bối cảnh xã hội hiện tại, có thể thấy giải pháp được tác giả đề xuất ở cuối tác phẩm vẫn là giải pháp mang tính tượng trưng - tôn giáo và tính lí tưởng hóa hơn là một gợi ý có tính thực tiễn về mặt đạo đức, xã hội.

Tất cả những đặc điểm nói trên (bao gồm cả những ưu điểm lẫn giới hạn) đã góp phần trong việc tạo nên một phong cách thơ riêng biệt, nhất quán của Nguyễn Quang Thiều. Đọc ông, là đọc tất cả những ưu và nhược ấy, dù chính chúng đã tạo nên sự chia rẽ, thậm chí, đối lập gay gắt trong tiếp nhận của độc giả. Về điều này, tôi muốn nói thêm. Khi đọc thơ, cái chúng ta tiếp xúc trước hết là tác phẩm và với thế giới nghệ thuật được kiến tạo trong đó. Đấy là thế giới hình tượng được cấu trúc theo một kiểu tư duy, một quan điểm thẩm mĩ và bút pháp nghệ thuật tương ứng. Đọc một tác phẩm thơ (và nghệ thuật nói chung) là đọc một chỉnh thể trọn vẹn. Do vậy, khi tiếp nhận, đánh giá tác phẩm, dù về ưu hay nhược, cần xem xét trong cấu trúc tổng thể, trong tính hệ thống của nó. Tất nhiên, hệ thống này bao gồm cả cấu trúc trong văn bản (chủ đề, hình tượng, ngôn ngữ…) và cả cấu trúc ngoài văn bản (bao gồm văn bản, tác giả, độc giả, đời sống văn hóa, xã hội…). Thực tế là, khi đọc một văn bản thơ, nhất là thơ đương đại, ta khó lòng có thể gạt ra ngoài hoàn toàn tư cách con người tiểu sử của tác giả, cũng như khó lòng đòi hỏi về một thứ “thơ thuần khiết” hay “thi sĩ thuần khiết”. Sự “thuần khiết” này, trên thực tế, là một ảo tưởng. Sự liên hệ, đối chiếu giữa hình tượng tác giả - chủ thể sáng tạo trong tác phẩm với tác giả - con người tiểu sử ngoài đời có thể đến rất tự nhiên và có thể giúp lí giải đúng hơn, sâu hơn về tác phẩm. Có lẽ vì vậy mà cách đọc này được không ít người lựa chọn. Tuy vậy, không được đánh đồng hai vai trò, tư cách này vào một. Bởi điều này có thể dẫn đến những yêu cầu, đòi hỏi lạc hệ thống, “bỏ bóng đá người”, hoàn toàn sai lệch với bản chất tiếp nhận nghệ thuật.

Tôi cho rằng, đóng góp thực sự của một tác giả, trước hết từ sự táo bạo, mới mẻ trong quan niệm, tư tưởng, trong sự “cá nhân hóa” hình tượng và ngôn ngữ, bút pháp của mình. Điều đó không chỉ đem lại giá trị và thành tựu cho người viết mà còn làm đa dạng và giàu có cho nền thơ, đáp ứng nhu cầu tinh thần vốn dĩ hết sức khác biệt từ phía độc giả. Thơ Việt Nam hiện đại có sự góp mặt của nhiều thế hệ, tên tuổi với những cảm hứng, khuynh hướng, bút pháp sáng tạo khác nhau. Có người yêu thơ Tố Hữu, có người mê đắm thơ Xuân Diệu, nhưng cũng có người xúc động sâu xa khi đọc Trần Vàng Sao; có người say mê thơ Lưu Quang Vũ, Tô Thùy Yên nhưng có người lại thích thơ Bùi Giáng, Lê Vĩnh Tài, hoặc Bùi Chát, Nồng Nàn Phố, Nguyễn Thế Hoàng Linh… Thì có sao? Đó là quyền của người đọc. Nhưng không thể vì sở đọc cá nhân mà đòi hỏi/ buộc tác giả phải viết theo ý mình. Đây là một mối quan hệ có tính hai chiều (biết rồi, khổ lắm, nói mãi!): Độc giả lựa chọn lựa thơ nhưng thơ cũng lựa chọn độc giả. Sự “hoàn toàn tự do” này là dành cho cả hai phía, theo cách nói của Thanh Tâm Tuyền:

Ở đây tôi là vị hoàng đế đầy đủ quyền uy. Bởi vì người vào trong đất đai của tôi.

người hoàn toàn tự do.

để cai trị tôi có những luật lệ tinh thần mà người phải thần phục nếu người muốn nhập lãnh thổ.

người hoàn toàn tự do.

và có thể ném cuốn sách ra khỏi cửa sổ.

                      (Tôi không còn cô độc)

Tất nhiên, điều này chỉ có thể được hiện thực hóa và bảo đảm bởi một cơ chế văn hóa, xã hội hiện đại, dân chủ, minh bạch, thực sự biết tôn trọng những ý kiến khác biệt trong sáng tạo và tiếp nhận.

Lò Mổ là vật liệu, nhưng vật liệu ấy đã được chế tác lại qua một lò luyện đan đặc biệt - tư duy và cảm hứng của nghệ sĩ. Ở Nguyễn Quang Thiều, tồn tại một kiểu tư duy đặc biệt, bằng giấc mơ, trí tưởng tượng, cả những cơn mộng du, ông dẫn ta vào thế giới của chết chóc, thối rữa, sự tàn bạo, nhưng cuối cùng, lại hướng ta đến sự thanh tẩy và ước vọng phục sinh, cứu rỗi. Đó là sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn - tượng trưng và kiểu tư duy sử thi - tôn giáo. Đó là một hành trình dữ dội, một cơn ác mộng, nhưng cực thực và đau đớn, như chính thực tại đời sống ta không thể chối từ. Nguyễn Quang Thiều đã kể lại cho độc giả giấc mơ của cá nhân ông về đời sống này. Nhưng đó không chỉ là giấc mơ của riêng ông. Nói theo Carl Gustav Jung, “những giấc mơ như thế này, cùng với những trải nghiệm trực tiếp của tôi về vô thức, đã dạy tôi rằng, những nội dung ấy không phải là các hình thức lỗi thời đã chết, mà là một phần đời sống nội tại sống động của chúng ta”[4]. Và rằng, “với tôi, trạng thái phi thực đó là bản chất của kinh hoàng, bởi tôi vẫn luôn hướng đến thế giới này và cuộc sống này. Dù có bị cuốn đi đến đâu, tôi luôn biết rằng mọi điều tôi đang trải nghiệm rốt cuộc đều hướng về cuộc sống thực tại của chính mình. Tôi muốn đáp lại những đòi hỏi của nó và hoàn tất ý nghĩa của nó”[5].

Lò Mổ mang cấu trúc của một giấc mơ vô thức, vốn được định hình trên một cấu trúc hiện thực: nỗi kinh sợ trước cái ác, sự tàn bạo, vô minh và niềm tin (đầy lãng mạn) về sức mạnh cứu rỗi của cái đẹp, cái thiện, của nghệ thuật. Đấy là một cơ chế tinh thần mạnh mẽ, dựa trên một niềm tin (có lẽ) cũng mạnh mẽ không kém về những giá trị tinh thần ấy. Hãy đọc “cơn ác mộng” của Lò Mổ theo cách mà nó được thiết kế!

                                                                                            Vinh, 20/10/2025

                                                                                                       L.H.Q

 

 

 

 



 



[1] Xem thêm:

 Ngọc Ánh (2025), “Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam nhờ cơ quan chức năng can thiệp vụ bị xuyên tạc thơ” (Ngọc Ánh), https://tienphong.vn/chu-tich-hoi-nha-van-viet-nam-nho-co-quan-chuc-nang-can-thiep-vu-bi-xuyen-tac-tho-post1721543.tpo, 02/03/2025 09:16

 [2] Trần Mạnh Hảo (1997) Thơ phản thơ, Nxb Văn học.

 [3] Karl Jaspers (2024), Cái bi, Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú thích, in lần thứ 2, Nxb Hồng Đức, trang 124-125.

 [4] Carl Gustav Jung (2025), Hồi ức, giấc mơ, suy ngẫm, Aniela Jaffé thực hiện phần ghi âm, Nxb Thế giới, trang 223. 

[5] Sách đã dẫn, trang 245. 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét