Thứ Ba, 10 tháng 6, 2025

Tiểu thuyết của Nguyễn Đức Tùng

                                                          BÍ MẬT CỦA HẢI TRÌNH

(Về tiểu thuyết Thuyền – Nguyễn Đức Tùng, Nxb Phụ nữ Việt Nam, 2025)

                         


                                           

Lê Hồ Quang

Thuyền có nhịp điệu ngôn từ khá đặc biệt: chậm rãi và bình thản. Nhịp điệu ấy hé lộ những câu chuyện khác, ẩn sau câu chuyện đang kể, một dòng chảy rộng lớn, không ngừng luân chuyển, đẩy con thuyền sự kiện trôi dạt không cùng trong hải lưu mênh mang của hồi ức, suy tưởng, chiêm nghiệm về lịch sử dân tộc, nhân loại và đời sống cá nhân, về những giá trị như sự thật, tự do, tình yêu, nỗi đau, sự cứu rỗi… Phải đọc chậm, vì dẫu có muốn, không thể cản được cái mạch/ nhịp đã được hình thành ngay từ lúc câu đầu tiên xuất hiện, nghĩa là khi con thuyền của câu chuyện xuất bến, bắt đầu hải trình, và nhịp điệu ấy được duy trì cho đến tận dòng kết thúc.

Cuốn tiểu thuyết được chia làm nhiều phần nhỏ, như những đoản văn, và đặt tên theo nội dung tương ứng (Thầy bói, Bến Ninh Kiều, Cầu khỉ, Sông Hậu, Cửa biển, Hải phận quốc tế, Vịnh Thái Lan, Khoảnh khắc, Phép lạ, Ngọn lửa trên biển,  Thủy táng, Vàng xưa đầy dấu chân,… Trại biên giới, Tuyết, Một người di dân, Gọi hồn). Câu chuyện kể về một chuyến vượt biên bằng đường biển của một nhóm người Việt vào khoảng những năm 80 của thế kỉ XX từ điểm nhìn của nhân vật tôi, người kể chuyện. Mở đầu là sự kiện đôi trai gái đi xem bói để biết tương lai, số phận của mình trước chuyến hải trình mịt mù. Kết thúc là sự kiện người con trai đi gọi hồn để gặp người yêu giờ đã thành người cõi khác. Xen giữa đó là vô số mảnh sự kiện kinh hoàng của chuyến đi được hồi cố, đan xen, đồng hiện. Kí ức và hiện tại, trải nghiệm và suy tưởng, đau đớn và xót thương…, tất cả đan cài vào nhau, tạo thành một hiện thực nội tâm đặc biệt. 

Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2025

Thơ Linh Văn

                                                      TIẾNG TRĂM NĂM VỠ 

(Về tập thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan của Linh Văn, Nxb Đà Nẵng, 2025)

 

                                                      nghe thời gian nứt ra từ kẽ đá

                                                      tiếng trăm năm vỡ dưới cội thông già

                (bài thơ về người say bóng đêm)

                                     Lê Hồ Quang






Ngay từ nhan đề tập thơ - thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan - thời gian, thay vì một ý niệm trừu tượng, đã được hữu hình hóa, vật chất hóa thành một chủ thể hành động mạnh mẽ. Con người, ngược lại, bị đẩy vào thế bị động, trở thành đối tượng bị tác động, biến đổi. Dẫu vậy, bất chấp sự tường minh trong cấu trúc ngữ pháp này, hình tượng thời gian cũng như mối quan hệ giữa thời gian và con người trong tập thơ vẫn hiện lên như một câu đố của Sphinx.

Ta hãy bắt đầu từ hình tượng thời gian. Từ góc nhìn nội cảm, thời gian được chú trọng trong tập thơ không phải là thời gian bên ngoài, tuyến tính, đồng nhất và có thể chia cắt mà chủ yếu là thời gian bên trong, là thời gian mà con người sống và trải nghiệm trong ý thức, cảm giác. Nó là một dòng chảy liên tục, không thể chia cắt, nơi quá khứ thấm nhuần vào hiện tại và định hình tương lai, hoặc, nói theo cách của Walt Whitman: "Quá khứ và hiện tại đã héo tàn - tôi đã đổ đầy và rót cạn/ Và bây giờ tôi sắp đổ đầy cái phần tôi kế tiếp của tương lai" (Bài hát chính tôi, Hoàng Hưng dịch). Dĩ nhiên, rất khó để đo lường thời gian này bằng các đơn vị vật lí bên ngoài, bởi nó hình thành từ “một nguyện ước riêng tư và thành thật/ về một khoảng trời đã mất” (vọng âm), được định vị, định tính bằng không gian tương ứng, cũng đã được cá nhân hóa. Đó là khoảng trời tuổi thơ: ấu thơ là chuỗi ngày dài ngóng đợi/ một tiếng động dội về từ vách núi bên kia (tiếng thở trong vườn); là miền đất quê hương: thị trấn nhỏ nằm ven dốc hoa vàng/ một cái cây như vị khách không mời/ trước ngôi nhà có tầng áp mái/ ô cửa sổ thơ mộng (thị trấn); hoặc một địa danh mà con người từng sống trải: “sài-gòn/ sài-gòn/ hẻm hóc chôn chúng ta vào mê cung/ rối rắm vòng vèo trí nhớ (những ngày mưa chầm chậm)… Đó là không – thời gian của yêu thương: thị trấn nhỏ/ giấu cuộc tình nho nhỏ/ một gói nho khô, một cánh pensée/ chàng thiếu niên đứng bên thành cầu nôn nao chờ đợi/ trái tim nhảy một điệu valse (thị trấn); và nỗi đau đớn, tuyệt vọng: bao điều chưa nói ứa ra như nhựa cây sau mỗi vết chém/ và anh đáp lời em bằng thứ màu đỏ kia/ từ hốc mũi trên gương mặt cứng đờ/ cuộc hội thoại của xương/ và máu (cho Anh của em (1976-2023))… Thời gian này vừa có thể đo đếm được bằng các con số ngày/ tháng/ năm, đồng thời rộng lớn hơn, bí ẩn và khó thấu suốt hơn. Đó là thời gian đã được cảm xúc hóa, tinh thần hóa: những ngày im lặng thả ngón tay trỏ của mình/ xuyên qua những tầng biển sắc nhọn/ để chạm vào thương tích của một ngày khác (thương tích); tất cả chỉ là một nhát cắt dọc chiêm bao/ đổ thời gian xuống mặt phẳng không gian/ còn cách nào khác ngoài việc khẽ chạm từng hình bóng/ để cảm nhận sức nặng kí ức/ bám trên đầu mỗi ngón tay như bụi (từ một tấm ảnh gia đình)… 

Chủ Nhật, 4 tháng 5, 2025

Thơ Đặng Văn Hùng

                                                     ĐIỀU GÌ KHIẾN MẸ TIN

(Về tập Bài ca sau mưa của Đặng Văn Hùng, Nxb Đà Nẵng, 2025)

                                            Lê Hồ Quang



Ấn tượng trước hết của tôi về Bài ca sau mưa là sự nhỏ nhắn, khiêm nhường của nó. Tập thơ chỉ có 49 trang, không kể mục lục, với khổ in 10,5 x18 cm, có thể cầm gọn trong tay. Số lượng bài cũng ít và thường rất ngắn, có khi chỉ vài dòng. Nhưng chúng khơi mở những cảm giác đặc biệt nhẹ nhõm và dịu dàng.

Là một thầy giáo, tác giả ưa viết về một không gian thân mật và gần gũi - con đường đến trường, lớp học có nhiều cửa sổ, những cô cậu học trò mơ mộng... Tuy nhiên, nếu đời sống học đường trong sáng tác của nhiều tác giả thường gắn với những mối tình học trò và những rung động lãng mạn đầu đời của chủ thể trữ tình, kiểu “Vậy đó, bỗng nhiên mà họ lớn/ Tuổi hai mươi đến có ai ngờ/ Một hôm trận gió tình yêu lại/ Đứng ngẩn trông vời áo tiểu thơ” (Học sinh - Huy Cận) hoặc “Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc/ Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường/ Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương/ Tôi thay mực cho vừa màu áo tím” (Tuổi mười ba - Nguyên Sa), “Em tan trường về/ Đường mưa nho nhỏ/ Chim non giấu mỏ/ Dưới cội hoa vàng” (Ngày xưa Hoàng Thị - Phạm Thiên Thư)… thì trong Bài ca sau mưa, chủ thể trữ tình thường quan tâm hơn đến công việc hàng ngày của một… ông giáo. Điều này thể hiện ngay trong tên các bài thơ, chẳng hạn Trước giờ dạy tối, Để chuẩn bị cho một bài giảng, Bài giảng về kể chuyện, Nghe chữ… Nhưng quả thực, ít khi công việc sự vụ chốn trường sở (vốn thường được mặc định là khô khan, tẻ nhạt, mệt mỏi), lại hiện lên trong những câu thơ một cách ân cần và trìu mến như vậy.   

Thứ Hai, 3 tháng 2, 2025

Thơ Phan Đan

 

THƠ PHAN ĐAN 

 khoảng trắng giữa trang Apocalypse

                                                                                        

 Lê Hồ Quang

 




Trong văn bản mở đầu tập Thơ Phan Đan [1] - tản mạn về thơ, Phan Đan viết:

Mỗi ca khúc là một giấc mơ hữu hạn được cắt gọt và đóng khung trong âm vực giọng người và trong những xúc cảm người. Những giấc mơ hữu hạn làm tán loạn đời sống liên tục của chúng ta và làm hoài thai những giấc mơ khác, có lẽ còn hữu hạn hơn.

Nhưng không có những tập hợp hữu hạn ấy, chúng ta biết làm gì trước THỜI GIAN, dòng chảy tuyệt mù tăm tích này?”

Với Phan Đan, âm nhạc, thơ ca hay nghệ thuật nói chung, có lẽ mang cùng một ý nghĩa: những giấc mơ vượt lên sự hữu hạn để tìm đến “những đường biên giới mênh mông của đời sống”; chúng có khả năng “làm lộ diện niềm hạnh phúc mà ta đã bỏ qua, đã quên lãng, đã mất mát hoặc không thể nào bắt gặp trong cõi hiện thực hữu hạn của đời người”. Ý thức về sự “cắt gọt và đóng khung”, về sự “hữu hạn” (thậm chí là “những tập hợp hữu hạn”) của những giấc mơ sáng tạo không làm lu mờ đi ý nghĩa và giá trị thực sự của chúng: đó là một cách để con người đối diện và tìm thấy tâm hồn mình trên “dòng chảy tuyệt mù tăm tích” của thời gian và cõi vô cùng. Nhưng việc nhấn mạnh tính bất toàn và những giới hạn tất yếu của nghệ thuật và thơ ca, đặc biệt khi đặt trong bối cảnh xã hội công nghệ hiện đại, đồng thời dẫn ông đến với một nhận thức và tâm thế cần thiết: sáng tạo nghệ thuật là một hành động lựa chọn và chấp nhận. Thơ là hành động ưu tư về cuộc đời và chính nó.