Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2025

Lò Mổ của Nguyễn Quang Thiều

                                                CẤU TRÚC MỘT ÁC MỘNG

(Về trường ca Lò Mổ của Nguyễn Quang Thiều, Nxb Hội Nhà văn, 2025)

                                                                                                                                                                                                  Chúng ta phải đi qua đêm tối này

                                                                      (Chương 18 - Hãy đứng dậy)                            


Tranh của Nguyễn Quang Thiều

                                                                                
              Lê Hồ Quang

1. Lời mở

Trong lời mở đầu Lò Mổ, Nguyễn Quang Thiều khẳng định: “Viết chỉ là một hành động mang tính cá nhân. Ngay cả khi những trang viết được công khai với bất cứ hình thức nào cũng chỉ là hành động của cá nhân. Tôi "cá nhân hóa" toàn bộ Lò Mổ”.

Nhưng viết có thực chỉ là một hành động cá nhân? Tôi nghĩ, nếu xét về bản chất sáng tạo thì đúng vậy - viết là một hành động cá nhân, bởi trong quá trình viết, tác giả luôn thể hiện nhãn quan, bút pháp và quan niệm riêng về thế giới. Tuy nhiên, khi tác giả cất tiếng bằng ngôn ngữ thơ, ngôn ngữ nghệ thuật, họ đã đồng thời tham gia vào một quy ước giao tiếp cộng đồng đặc thù. Một khi tác phẩm bước vào đời sống văn học, nó phải tuân thủ các quy tắc giao tiếp xã hội và chấp nhận những phản ứng trái chiều từ cộng đồng tiếp nhận, diễn giải. Khi đó, từ một hành động cá nhân, viết đã trở thành một hành động xã hội.

Việc Nguyễn Quang Thiều nhấn mạnh tính cá nhân của hành động viết, tính chất “ác mộng” của Lò Mổ và khẳng định “tôi không có hy vọng tìm được cơ hội để chia sẻ câu chuyện này với ai khác ngoài tôi” không chỉ là một cách nói mang tính trữ tình (dù “nói” bằng các ẩn dụ thống thiết là phong cách quen thuộc của nhà thơ này). Có lẽ, sự tiếp nhận trái chiều từ phía độc giả đã được ông lường trước, trước khi trình ra “cơn ác mộng” của mình. Trên thực tế, khi chính thức ra mắt vào cuối năm 2024, Lò Mổ đã gây ra những tiếp nhận trái ngược khá gay gắt. Những tranh cãi xung quanh tập trường ca này có lúc bị đẩy lên đỉnh điểm, buộc tác giả phải lên tiếng nhờ pháp luật can thiệp[1]. Trước đó, tập Sự mất ngủ của lửa (xuất bản năm 1992, nhận Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1993) của ông cũng gây ra những tranh luận gay gắt tương tự trong giới chuyên môn và độc giả nói chung[2]... Có thể nói, đấy là cách để tác giả vạch ranh giới và xác lập một giao ước đọc/ tiếp nhận với độc giả. Điều này vừa cho thấy quan niệm cá nhân của ông về hành động viết, hé lộ cấu trúc hình tượng đặc biệt của tác phẩm, đồng thời thể hiện sự trải nghiệm và hiểu biết về một cộng đồng diễn giải phức tạp mà ở đó sự viết và sự đọc không phải bao giờ cũng tương thích. Tôi nghĩ hành vi tự giới hạn này không phải xuất phát từ sự kiêu hãnh về phẩm chất cá nhân của cái tôi nghệ sĩ (Tôi là con chim đến từ núi lạ/ Ngứa cổ hát chơi - Xuân Diệu) hay ý thức về quyền uy tuyệt đối của chủ thể trong sáng tạo (Ở đây tôi là vị hoàng đế đầy đủ quyền uy - Thanh Tâm Tuyền), mà là một sự tự phòng vệ thì đúng hơn (thực tế những gì xảy ra sau khi cuốn sách ra đời cũng chứng thực rằng sự phòng vệ này là đúng). Mặt khác, ngược lại với mong muốn của tác giả (“tôi không muốn ý chí can thiệp vào cơn mộng mị của tôi”), nó cho thấy một cơ chế kiểm soát/ tự kiểm soát mang tính lí trí rất rõ. Dĩ nhiên, một khi còn phải nói về viết như một nỗ lực “vượt thoát khỏi tự do” thì như một nghịch lí, ta thấy rõ hơn lúc nào hết, cả sự thiếu tự do lẫn sự kiềm tỏa đáng ngại của những thiết chế văn hóa, xã hội đang công khai hoặc ngầm ẩn chi phối đời sống sáng tạo.

Tôi muốn xem Lời mở đầu này như một bộ phận hữu cơ của trường ca Lò Mổ, đường viền ngoài nhưng sắc nét, giàu tính hiện thực của "cơn ác mộng" về thế giới “mà tôi đang sống” (Nguyễn Quang Thiều). Nó là một đề dẫn, một gợi ý, một khuyến nghị đáng quan tâm trước khi độc giả bước vào thế giới của Lò Mổ.

Thứ Ba, 2 tháng 9, 2025

Phê bình - tiểu luận của Mai Văn Phấn (2)

                                       TRONG ÁNH SÁNG CỦA ĐỨC TIN

(Về cuốn tiểu luận - phê bình văn học Trong Ơn gọi

của Vincent Mai Văn Phấn, Nxb Đồng Nai, 2025)

                                                                     



                    Lê Hồ Quang

 Khi chọn văn học Công giáo làm đối tượng nghiên cứu, phê bình, Mai Văn Phấn đã bộc lộ một ý thức và tâm thế viết đặc biệt. Với ông, viết mang ý nghĩa “sự mầu nhiệm của Ơn Gọi”[1], thấm đẫm ánh sáng của Đức tin hướng về những giá trị thiêng liêng của Thiên Chúa và Cõi Sáng tạo. Viết cũng là sự thôi thúc mãnh liệt tự bên trong, nhằm đáp lời tiếng gọi mầu nhiệm của Thiên Chúa, tiếng gọi của Cõi Thiêng cuộc đời, nghệ thuật. Sự kết hợp nhiều tư cách trong ngòi bút Mai Văn Phấn - một tác giả phê bình, một nghệ sĩ sáng tạo, một Kitô hữu nhiệt thành - vừa tự nhiên, tất yếu, lại vừa mang tính chủ đích, giúp ông trở nên đặc biệt bén nhạy trong việc nắm bắt, khai mở những điều huyền nhiệm, sâu xa trong tác phẩm, điều mà một độc giả bình thường như tôi khó có thể đọc ra.

 Trong Ơn Gọi, ngoài phần Giới thiệu (của Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản) và lời bạt (của Linh mục Giuse Cao Gia An, S.J.) được cấu trúc thành hai phần, gồm phần 1. Hạt Giống Tin Mừng; phần 2: Ánh Sáng Đấng - Tình - Yêu. Phần 1 có tính tổng quan, gồm 4 tiểu luận, 3 bài đầu tập trung vào các vấn đề nổi bật trong văn học Công giáo Việt Nam (hành trình cứu chuộc, cảm thức đức tin, ngôn ngữ cầu nguyện…); tiểu luận thứ tư nói về hành trình sáng tạo của chính tác giả, vốn là một tín hữu Công giáo, đồng thời cũng là một tác giả có một quá trình sáng tạo lâu dài. Tiểu luận thứ tư vừa có tính chia sẻ, đồng thời là sự kết nối, cộng thông tinh thần của cá nhân Mai Văn Phấn với cộng đoàn Công giáo. Phần 2 gồm 20 tiểu luận, mở đầu bằng tiểu luận bàn về cuốn tự truyện Hy vọng của Đức Giáo hoàng Phanxicô và tiếp đó là các tiểu luận bàn về các hiện tượng văn học Công giáo Việt Nam hiện đại tiêu biểu, bao gồm  nhiều tác giả thơ, truyện, tùy bút, dịch thuật. Sự tập trung chủ đề tạo nên tính chất nhất quán, liền mạch, thể hiện khát vọng xây dựng, cống hiến cho cộng đoàn rất rõ.

Theo tôi hiểu, “Hạt giống Tin Mừng” và “Ánh sáng Đấng - Tình - Yêu” là những mô típ thiêng liêng, thường được sử dụng như biểu tượng nghệ thuật để nói về mầm mống tôn giáo, niềm khát khao thiêng liêng và ánh sáng cứu độ được gieo vào đời sống, văn hoá và thơ ca. Hành trình cứu chuộc là nền tảng để hình thành niềm tin và đời sống cầu nguyện của tín hữu. Đức tin là con đường để con người đón nhận ơn cứu chuộc. Cầu nguyện là cách thức để con người liên hệ với Thiên Chúa và đối thoại với Ngài. Như vậy, Cứu chuộc - Đức tin - Cầu nguyện là ba yếu tố cốt lõi, gắn bó hữu cơ trong Ki tô giáo, là “tam vị nhất thể”, tạo nên cấu trúc nhỏ nằm trong cấu trúc lớn - Hạt Giống Tin Mừng. Nội dung tập phê bình Trong Ơn Gọi, về căn bản, được xây dựng trên cấu trúc hệ thống biểu tượng này.

Thứ Bảy, 16 tháng 8, 2025

Nửa thế kỉ văn học Việt Nam

                                NỬA THẾ KỈ VĂN HỌC VIỆT NAM 

 MỘT PHÁC THẢO MỞ

 Về công trình nghiên cứu, phê bình của GS Phong Lê: Phác thảo của phác thảo, nửa thế kỉ văn học Việt Nam trong hoà bình – đổi mới và hội nhập (1975 – 2025), xuất bản năm 2024, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.


                             

                     

   Lê Hồ Quang

Chỉ cần nhìn qua danh mục các công trình nghiên cứu (bao gồm hơn 30 tác phẩm in riêng và chủ biên), có thể thấy gần như cả cuộc đời nghiên cứu của GS Phong Lê gắn liền với văn học Việt Nam hiện đại. Các công trình nghiên cứu, phê bình của ông tập trung vào hai hướng chính: a) khảo sát các khuynh hướng vận động, các vấn đề, hiện tượng văn học nhằm nhận diện và khái quát các quy luật, đặc trưng của văn học; b) nghiên cứu các tác giả văn học nổi bật, gắn liền với từng thời kì, giai đoạn văn học, qua các tác giả tiêu biểu để xác định diện mạo và đóng góp của các giai đoạn, thời kì văn học. Bám sát tiến trình và hiện tượng văn học, đặt chúng trong mối quan hệ biện chứng với hoàn cảnh chính trị, văn hoá – xã hội phát sinh để cắt nghĩa và lí giải, các tác phẩm nghiên cứu, phê bình của ông thường đem lại cái nhìn mang tính toàn cảnh, bao quát và hệ thống về đối tượng nghiên cứu. Điều này cũng thể hiện rõ trong công trình mới nhất của ông bàn về văn học Việt Nam giai đoạn từ 1975 đến nay.   

Thứ Ba, 22 tháng 7, 2025

Phác thảo tư duy thơ Việt Nam hiện đại

           PHÁC THẢO TƯ DUY THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

            (Qua sáng tác của một số tác giả thuộc thế hệ Đổi mới)



 
 

                                      Lê Hồ Quang

         Nói tới tư duy thơ là nói tới một loại hình tư duy nghệ thuật mang tính đặc thù[1]. Nó chi phối hoạt động sáng tạo của nhà thơ và được hiện thực hóa, cụ thể hóa thông qua hệ thống quan niệm, tư tưởng và thi pháp thể loại. Tư duy thơ của tác giả chịu sự chế ước của nhiều yếu tố: đặc điểm tâm sinh lý, cá tính sáng tạo, kinh nghiệm và trình độ thẩm mĩ của chủ thể, môi trường văn hóa - xã hội… Nó thể hiện qua những phát ngôn tư tưởng trực tiếp hoặc qua những bài viết phê bình, trao đổi, tranh luận của tác giả, song đặc biệt tập trung thể hiện trên văn bản tác phẩm, trong thế giới nghệ thuật được tạo nên bởi ngôn ngữ thi ca tương ứng. Đổi mới thơ, xét từ bản chất của nó, chính là đổi mới tư duy. Chỉ đổi mới hình thức hay nội dung thơ chưa phải là đổi mới tư duy. Đổi mới tư tưởng, quan niệm về thơ cũng mới chỉ là một yếu tố (dù rất quan trọng) của đổi mới tư duy. Vậy thế nào mới thực sự đổi mới tư duy? Ấy là khi ở tác giả hình thành một mô hình nhận thức – sáng tạo mới, khác (thậm chí đối lập) với trước và nhờ đó tạo nên sự thay đổi mang tính gốc rễ trong thế giới nghệ thuật tương ứng. Có thể khẳng định, đổi mới tư duy thơ chính là nền tảng của mọi sự cách tân, đổi mới thơ. Nghiên cứu tư duy thơ là cách để hiểu/ lý giải triệt để hơn cả về “cơ chế” hoạt động sáng tạo của chủ thể, nhằm cắt nghĩa sâu hơn về những đặc thù nghệ thuật trong tác phẩm (dĩ nhiên cũng cần tính đến yếu tố vô thức trong sáng tạo của nghệ sỹ). Nó đưa lại nhận thức về tác phẩm như một cấu trúc chỉnh thể bao gồm nhiều yếu tố liên kết chặt chẽ. Cũng có thể xem đấy như  một điểm tựa phương pháp luận giúp ta nhận ra nét đặc thù khu biệt các loại hình nhận thức thẩm mĩ, từ đó, có được sự đánh giá khách quan, khoa học cần thiết về các hiện tượng thơ, nhất là những hiện tượng mới, phức tạp. 

Thứ Ba, 10 tháng 6, 2025

Tiểu thuyết của Nguyễn Đức Tùng

                                                          BÍ MẬT CỦA HẢI TRÌNH

(Về tiểu thuyết Thuyền – Nguyễn Đức Tùng, Nxb Phụ nữ Việt Nam, 2025)

                         


                                           

Lê Hồ Quang

Thuyền có nhịp điệu ngôn từ khá đặc biệt: chậm rãi và bình thản. Nhịp điệu ấy hé lộ những câu chuyện khác, ẩn sau câu chuyện đang kể, một dòng chảy rộng lớn, không ngừng luân chuyển, đẩy con thuyền sự kiện trôi dạt không cùng trong hải lưu mênh mang của hồi ức, suy tưởng, chiêm nghiệm về lịch sử dân tộc, nhân loại và đời sống cá nhân, về những giá trị như sự thật, tự do, tình yêu, nỗi đau, sự cứu rỗi… Phải đọc chậm, vì dẫu có muốn, không thể cản được cái mạch/ nhịp đã được hình thành ngay từ lúc câu đầu tiên xuất hiện, nghĩa là khi con thuyền của câu chuyện xuất bến, bắt đầu hải trình, và nhịp điệu ấy được duy trì cho đến tận dòng kết thúc.

Cuốn tiểu thuyết được chia làm nhiều phần nhỏ, như những đoản văn, và đặt tên theo nội dung tương ứng (Thầy bói, Bến Ninh Kiều, Cầu khỉ, Sông Hậu, Cửa biển, Hải phận quốc tế, Vịnh Thái Lan, Khoảnh khắc, Phép lạ, Ngọn lửa trên biển,  Thủy táng, Vàng xưa đầy dấu chân,… Trại biên giới, Tuyết, Một người di dân, Gọi hồn). Câu chuyện kể về một chuyến vượt biên bằng đường biển của một nhóm người Việt vào khoảng những năm 80 của thế kỉ XX từ điểm nhìn của nhân vật tôi, người kể chuyện. Mở đầu là sự kiện đôi trai gái đi xem bói để biết tương lai, số phận của mình trước chuyến hải trình mịt mù. Kết thúc là sự kiện người con trai đi gọi hồn để gặp người yêu giờ đã thành người cõi khác. Xen giữa đó là vô số mảnh sự kiện kinh hoàng của chuyến đi được hồi cố, đan xen, đồng hiện. Kí ức và hiện tại, trải nghiệm và suy tưởng, đau đớn và xót thương…, tất cả đan cài vào nhau, tạo thành một hiện thực nội tâm đặc biệt. 

Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2025

Thơ Linh Văn

                               NHỊP THỜI GIAN CỦA LINH VĂN

 (Về tập thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan [1] của Linh Văn, Nxb Đà Nẵng, 2025)

    riêng tôi, tập thơ này để tụng ca thời gian. thứ thời gian của riêng tôi, làm nên chính tôi bây giờ và mai sau - Linh Văn

                                                                              Lê Hồ Quang    



                  

Chọn thời gian làm đề tài, và hơn thế, biến nó thành chủ đề xuyên suốt tập thơ, hẳn Linh Văn biết mình đang đối mặt với một hiểm địa - sự lặp lại.

Phải, còn gì quen thuộc hơn hình ảnh mái tóc "tiêu như thanh ty, mộ thành tuyết" trong thơ Lý Bạch, con quạ trên cành khô trong thơ Basho, hay những con sóng thời gian xô nhau tìm cái chết trong thơ Shakespeare? Còn gì quen thuộc hơn cảm giác "Cái bay không đời cái trôi/ Từ tôi phút ấy sang tôi phút này" trong thơ Xuân Diệu? Và nữa, ý tưởng con người kiến tạo mình trong/ bằng thời gian của Walt Whitman: "Quá khứ và hiện tại đã héo tàn - tôi đã đổ đầy và rót cạn/ Và bây giờ tôi sắp đổ đầy cái phần tôi kế tiếp của tương lai" (Bài ca chính tôi, Hoàng Hưng dịch)… Thời gian, với quy luật chảy trôi của nó, với sức mạnh hủy hoại và tái sinh của nó, từ lâu, đã là một “chủ đề vĩnh cửu” của văn học, nghệ thuật, triết học.

Nhưng có vẻ tác giả thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan không nao núng. Bởi lẽ, điều anh ta thực sự quan tâm là thời gian nội tâm, tâm lí (Henri Bergson gọi là thời gian tồn tục) được kiến tạo bởi kinh nghiệm, thân thể, hồi ức, trực giác… Đấy là thời gian của ý thức, của trải nghiệm sống, đối lập với thời gian vật lí, luôn trôi chảy, không thể chia cắt, nơi quá khứ, hiện tại, tương lai cũng như thực tại và ước mơ, hoài niệm luôn thấm nhuần, hòa quyện. Dòng chảy chủ quan đó biểu thị đời sống tự ngã sâu thẳm, mang tính bản chất, bên trong cá nhân.

thời gian ăn tôi bằng mọi giác quan, do vậy, không chỉ là một cách diễn đạt có tính ẩn dụ. Nó thể hiện cách tư duy, đồng thời, cách cấu trúc ý niệm thời gian bằng/ qua ngôn ngữ thơ của tác giả. Hình thành từ “một nguyện ước riêng tư và thành thật/ về một khoảng trời đã mất” (vọng âm), thời gian này gắn liền với kinh nghiệm bên trong, với dòng ý thức phi không gian, với các trạng thái nội tâm sâu kín. Đó là thời gian đã được nội cảm hóa: tất cả chỉ là một nhát cắt dọc chiêm bao/ đổ thời gian xuống mặt phẳng không gian/ còn cách nào khác ngoài việc khẽ chạm từng hình bóng/ để cảm nhận sức nặng kí ức/ bám trên đầu mỗi ngón tay như bụi (từ một tấm ảnh gia đình)… Trong dòng thời gian này, con người hiện diện đồng thời cũng là con người “khiếm diện”, vừa là cái tôi tiểu sử, có những trải nghiệm cụ thể, đầy cảm xúc về tuổi thơ, tình yêu, mất mát, nhưng đồng thời cũng là cái tôi đã sống trải “những nơi tôi chưa từng đến”, “những năm / không có trên một cuốn lịch nào”, và cả “nỗi chết êm như nắng”. Sự “vọng âm” của những “lời tro” tạo nên tính chất phi danh tính của cái tôi, sắc màu mơ hồ hư ảo ngưng đọng trong những cảnh sắc không - thời gian được mô tả và âm thanh, ánh sáng, mùi vị của vĩnh viễn mà chúng mang theo.

Chủ Nhật, 4 tháng 5, 2025

Thơ Đặng Văn Hùng

                                                     ĐIỀU GÌ KHIẾN MẸ TIN

(Về tập Bài ca sau mưa của Đặng Văn Hùng, Nxb Đà Nẵng, 2025)

                                            Lê Hồ Quang



Ấn tượng trước hết của tôi về Bài ca sau mưa là sự nhỏ nhắn, khiêm nhường của nó. Tập thơ chỉ có 49 trang, không kể mục lục, với khổ in 10,5 x18 cm, có thể cầm gọn trong tay. Số lượng bài cũng ít và thường rất ngắn, có khi chỉ vài dòng. Nhưng chúng khơi mở những cảm giác đặc biệt nhẹ nhõm và dịu dàng.

Là một thầy giáo, tác giả ưa viết về một không gian thân mật và gần gũi - con đường đến trường, lớp học có nhiều cửa sổ, những cô cậu học trò mơ mộng... Tuy nhiên, nếu đời sống học đường trong sáng tác của nhiều tác giả thường gắn với những mối tình học trò và những rung động lãng mạn đầu đời của chủ thể trữ tình, kiểu “Vậy đó, bỗng nhiên mà họ lớn/ Tuổi hai mươi đến có ai ngờ/ Một hôm trận gió tình yêu lại/ Đứng ngẩn trông vời áo tiểu thơ” (Học sinh - Huy Cận) hoặc “Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc/ Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường/ Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương/ Tôi thay mực cho vừa màu áo tím” (Tuổi mười ba - Nguyên Sa), “Em tan trường về/ Đường mưa nho nhỏ/ Chim non giấu mỏ/ Dưới cội hoa vàng” (Ngày xưa Hoàng Thị - Phạm Thiên Thư)… thì trong Bài ca sau mưa, chủ thể trữ tình thường quan tâm hơn đến công việc hàng ngày của một… ông giáo. Điều này thể hiện ngay trong tên các bài thơ, chẳng hạn Trước giờ dạy tối, Để chuẩn bị cho một bài giảng, Bài giảng về kể chuyện, Nghe chữ… Nhưng quả thực, ít khi công việc sự vụ chốn trường sở (vốn thường được mặc định là khô khan, tẻ nhạt, mệt mỏi), lại hiện lên trong những câu thơ một cách ân cần và trìu mến như vậy.   

Thứ Hai, 3 tháng 2, 2025

Thơ Phan Đan

 

THƠ PHAN ĐAN 

 khoảng trắng giữa trang Apocalypse

                                                                                        

 Lê Hồ Quang

 




Trong văn bản mở đầu tập Thơ Phan Đan [1] - tản mạn về thơ, Phan Đan viết:

Mỗi ca khúc là một giấc mơ hữu hạn được cắt gọt và đóng khung trong âm vực giọng người và trong những xúc cảm người. Những giấc mơ hữu hạn làm tán loạn đời sống liên tục của chúng ta và làm hoài thai những giấc mơ khác, có lẽ còn hữu hạn hơn.

Nhưng không có những tập hợp hữu hạn ấy, chúng ta biết làm gì trước THỜI GIAN, dòng chảy tuyệt mù tăm tích này?”

Với Phan Đan, âm nhạc, thơ ca hay nghệ thuật nói chung, có lẽ mang cùng một ý nghĩa: những giấc mơ vượt lên sự hữu hạn để tìm đến “những đường biên giới mênh mông của đời sống”; chúng có khả năng “làm lộ diện niềm hạnh phúc mà ta đã bỏ qua, đã quên lãng, đã mất mát hoặc không thể nào bắt gặp trong cõi hiện thực hữu hạn của đời người”. Ý thức về sự “cắt gọt và đóng khung”, về sự “hữu hạn” (thậm chí là “những tập hợp hữu hạn”) của những giấc mơ sáng tạo không làm lu mờ đi ý nghĩa và giá trị thực sự của chúng: đó là một cách để con người đối diện và tìm thấy tâm hồn mình trên “dòng chảy tuyệt mù tăm tích” của thời gian và cõi vô cùng. Nhưng việc nhấn mạnh tính bất toàn và những giới hạn tất yếu của nghệ thuật và thơ ca, đặc biệt khi đặt trong bối cảnh xã hội công nghệ hiện đại, đồng thời dẫn ông đến với một nhận thức và tâm thế cần thiết: sáng tạo nghệ thuật là một hành động lựa chọn và chấp nhận. Thơ là hành động ưu tư về cuộc đời và chính nó.