PHAN
NHIÊN HẠO VÀ CHẾ TẠO THƠ CA
Lê Hồ Quang
Cái tên tập thơ rất khiêu khích: Chế tạo thơ ca
[1]. Thơ có thể “chế tạo” được ư? Phan Nhiên Hạo đã chế tạo thơ như thế nào?
Đâu là những “kỹ thuật” mà tác giả đã dùng để chế tạo thơ mình? Liệu có thể xem
những sản phẩm được chế tạo thuần kỹ thuật là thơ không?
Ta hãy lần lượt thử trả lời những câu hỏi trên.
Tập thơ được chia làm 2 phần. Tác giả sử dụng chủ yếu thể
thơ tự do và thơ văn xuôi. Một số bài sử dụng nguồn là các văn bản thuộc loại
hình khác (bài báo, bài nghiên cứu...) và “chế” lại dưới hình thức thơ (Hà
Nội 1, Hà Nội 2, Sau Cái Chết Xấu, Thư Nguyễn Quốc Chánh, Ẩm Thực Ở Một Làng
Quê...). Được đặt trong phần 2, đây là loạt bài thể hiện khá tập trung ý
tưởng “chế tạo” thơ ca của tác giả. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ mang tính
tương đối và cũng không thực cần thiết. Bài Chế Tạo Thơ Ca nằm
cuối tập, là một sự chốt hạ có chủ ý. Ở bài này ta sẽ thấy tuyên ngôn bán chính
thức của nhà thơ về vấn đề đã nêu trên. Tôi gọi “bán chính thức” bởi nó được
thể hiện dưới dạng thơ và bằng giọng điệu giễu cợt không khó nhận ra. Người ta
“chế tạo thơ ca” đơn giản chỉ bởi vì “một buổi chiều không có việc gì
để làm”. Nó có đủ các vật liệu, từ vật chất: “mười sáu con ốc, hai tấm
kim loại, bốn bánh xe”; đến tinh thần: “hỗn hợp của xung đột, hy vọng,
tình yêu và sự vô ích”. Sức mạnh của thứ thơ ca được chế tạo từ hỗn hợp này
thật khủng khiếp: “Đủ sức chạy từ Mỹ sang Tàu trong một đường hầm/ tối om
xuyên tâm trái đất”.
Những mô tả vắn tắt trên đủ cho thấy cái nhìn châm biếm của
tác giả về công việc làm thơ. Qua cái nhìn này, làm thơ đơn giản chỉ là việc...
làm thơ. Nó là sự phản đối hài hước nhưng mạnh mẽ đối với một số quan niệm khá
phổ biến, chẳng hạn, đề cao thơ ca thái quá (do vô ý hoặc cố tình, vì
những mục đích ngoài thơ), thiêng hóa, thậm chí thần bí hóa thơ, gán cho nó
những ý nghĩa ngoại thân hoa mĩ hoặc những trách nhiệm to tát nhưng trống rỗng.
Dĩ nhiên việc cho rằng thơ ra đời khi người ta không có việc gì làm (chỉ để lấp
chỗ trống), hoặc xem thơ là “vô ích”, hoặc gọi sức mạnh của thơ chỉ là kết quả
ngẫu nhiên của phản ứng thân xác thuần túy v.v., rất dễ gây phản đối. Thực
chất, đấy là một cách nói gây shock cố ý, nhằm khiến độc giả quan tâm tới vấn
đề đang được bàn tới, tức thái độ, quan niệm cần có đối với thơ và việc làm
thơ. Rõ ràng, ở đây tác giả đang tập trung vào việc đề xuất quan điểm mà theo
anh, là hợp lý và cần thiết, hơn là chú ý tới việc trình bày quan niệm có tính
hệ thống, đầy đủ. Cần phải có một thái độ, quan niệm tỉnh táo, khách quan hơn
đối với việc làm thơ, và rộng ra, đối với hoạt động có tên gọi sáng tạo nghệ
thuật, trong bối cảnh đương đại - đây là thông điệp nghiêm túc của
tác giả, đằng sau giọng điệu giễu cợt, châm biếm. Giọng giễu cợt này giúp Phan
Nhiên Hạo tránh được thái độ trầm trọng hóa vấn đề, điều mà có vẻ tác giả này
khá “dị ứng”, nhưng rất dễ sa vào khi có xu hướng “lập thuyết”.
Tính kỹ thuật (hiểu theo nghĩa là những tìm tòi, sáng tạo
trong hình thức, biện pháp, lối viết) thể hiện trong thơ Phan Nhiên Hạo khá rõ.
Từ tập Chế tạo thơ ca, tôi tạm khái lược mấy điểm sau đây:
- Phát huy tối đa sức mạnh của trí tưởng tượng, sử dụng
nhiều yếu tố, chi tiết giả tưởng, siêu thực; các hình ảnh, hình tượng chỉ tồn
tại trong giấc mơ, ảo giác, huyễn tưởng...; gây hiệu ứng mạnh về mặt hình ảnh.
- Sử dụng thường xuyên thủ pháp giễu nhại; cắt dán; tương phản, đối lập... Chúng tạo nên một thế giới
thơ đầy bất ngờ, gây kinh ngạc, pha trộn giữa thực/ hư, có lý/ phi lý, nên thơ/
suồng sã, nghiêm trọng/ hài hước...
- Phá bỏ trật tự tuyến tính của câu thơ, tạo sự đứt đoạn,
phân mảnh, phi logic thường xuyên trên bề mặt văn bản;
- Trong một số bài thơ, trọng tâm thường dồn vào một, hai
dòng cuối bài, tạo nên cấu tứ khá chặt chẽ, dù số lượng câu chữ cả bài nhìn
chung khá dài.
- Phá vỡ kiểu trữ tình cổ điển bằng lối trữ tình - tự sự;
giảm thiểu tối đa việc giãi bày xúc cảm, gia tăng yếu tố kể, tả, đặc biệt về
“Những chi tiết không đáng kể” (tên của một bài trong tập); giọng điệu từ tốn,
thản nhiên, phớt tỉnh.
Tôi muốn đi vào một số phân tích cụ thể hơn. Về khả năng
đánh thức trí tưởng tượng, với tôi, có lẽ ấn tượng nhất là Trong Những
Chiếc Tàu Ngầm. Đặc biệt ở những hình ảnh này:
Có lần tôi đã ở chỗ đường xích đạo
Cố gắng cắt trái đất làm đôi dọc theo đường đánh dấu
Nhưng có người giữ tay tôi lại và bảo:
“Nếu bạn làm thế, nước sẽ rơi ra ngoài khoảng không
Và rồi con tàu của chúng ta,
Sẽ chẳng còn nơi nào để lặn”.
Với tôi, trong những câu thơ ấy, thế giới đã được vẽ lại
theo cách khác, hoàn toàn bất ngờ [2].
Tác giả này thường tạo lập các tương quan liên hệ, suy tưởng
bằng cách đặt những sự việc, hình ảnh xa lạ, khác biệt cạnh nhau và chỉ nhờ vào
áp lực hệ thống mới có thể nhận ra mối liên hệ giữa chúng. Ví dụ trong hai dòng
kết thúc của Bài Mùa Thu:
Khi còn bé tôi đã nhổ nước bọt vào bàn tay ngửa ra của một
người mù
Bây giờ tôi phải làm gì trong mùa thu?
Với kết thúc này, ta buộc phải lần ngược trở lại phần đầu
bài thơ. Cái tên Bài Mùa Thu rất dễ gợi liên tưởng đến cảm
hứng lãng mạn quen thuộc. Tuy nhiên, như tác giả đã nói trong câu đầu tiên, “Như
chiếc nón lật ngửa dưới nắng và sự vô dụng của một vật thể ở sai vị trí”,
xuyên suốt bài thơ là nhận thức về “sự vô vọng của các kết hợp”, là cảm
giác về sự phi lí, bất ổn thống trị trong đời sống cá nhân cũng như sự vận hành
của thế giới: chiếc nón lật ngửa dưới nắng/ tôi không giống chính tôi
trong những bức ảnh cũ/ buổi hòa nhạc ngoài trời không có ai
nghe/ những người anh em không cùng tín ngưỡng/ một người nằm dài
dưới gốc cây, với quả lựu đạn trong túi quần... Giữa chuỗi chi tiết
kể, tả trong phần mở đầu (đôi khi có vẻ vụn vặt và rời rạc) và câu hỏi kết thúc
là một khoảng trống lớn, vắng lạnh. Nhiều chi tiết mô tả đột ngột, như ngẫu
nhiên, vụt hiện, đem lại những cảm giác trái ngược: khi suồng sã, lúc mơ mộng,
lúc sắc lạnh khinh bạc, khi nặng trĩu ẩn ức đau đớn. Sự đứt mạch ấy chắc chắn
gây không ít khó khăn trong tiếp nhận của độc giả.
Với một số đặc điểm kể trên, Bài Mùa Thu quả
là một phản - thơ - thu truyền thống. Dưới áp lực hệ thống, ta sẽ thấy rõ câu
hỏi trong phần kết bài hoàn toàn không vu vơ. Nó cũng không chỉ nhằm đến một
hành vi cụ thể. Vấn đề là người ta đã từng hành động sai trái/ tàn ác/ đểu giả/
bất nhân và bây giờ điều đó có được phép/ nên tiếp tục? Cả một hệ thống lỗi,
bắt đầu từ khâu vận hành đầu tiên, liệu điều này có phải đã được báo trước
trong cách hành xử nhẫn tâm khi “tôi” là một đứa trẻ và trở thành tất yếu khi
đã là một người “nhập cư già mặc quần áo cũ/ lạc lõng và phiền trách các đổi
thay”? Giữa hai dòng thơ là trùng trùng biến động về thời gian, không gian
và trải nghiệm cá nhân (và ta cũng nhận ra ở đó dấu vết của một thời kỳ lịch
sử, chính trị - xã hội đầy biến động). Chính khoảng cách đó (được tạo ra bởi sự
gắn kết giữa hai hình ảnh quá đối nghịch về tính chất) khiến bài thơ kết thúc
trong sự hoang mang, giằng xé, cảm giác vô phương hướng và bi kịch.
Thơ Phan Nhiên Hạo là nỗi băn khoăn thường trực về sự tồn
tại của nhân tính trong thế giới nhân tạo hiện đại. Thơ anh không từ chối những
vấn đề của thời cuộc, ngược lại, chủ đề thời cuộc luôn song hành với sự ưu tư
về thân phận “lưu vong” của hiện hữu người. Cái tôi trong Chế tạo thơ ca đầy cô độc và bơ vơ. Không tìm thấy mình trên mảnh
đất xứ người, đã đành, anh ta cũng không tìm thấy chỗ đứng của mình trên chính
mảnh đất của quê hương. Ám ảnh về sự lạc lõng, trôi dạt, bất ổn, bất định, chờ
đợi điều mãi mãi không bao giờ tới, anh ta bước đi/ ngồi/ đứng/ nhớ/ đọc/
nhìn... trên mặt đất nhưng không nhìn thấy/ cảm thấy gì, ngoài một đời sống
“thiên đường chuông giấy” đến “thiên đàng bằng nhựa” (ý của Inrasara [3]), với
ruồi, rác thải, nhựa, đồ nhân tạo. Tất cả chỉ là một thực thể trống rỗng, vô
hồn, chiếu ứng tự cái nhìn trống rỗng bên trong:
Tôi đọc hết mục rao vặt, tôi ăn hết ổ bánh mi
tôi nhìn hai con chó vật nhau trên thảm cỏ
rồi tôi kêu những tiếng cao và ngắn
của loại chim cánh cụt
một ngày mùa hè đẹp trời ở Santa Monica
(Di
Cư Mùa Hè)
Thơ Phan Nhiên Hạo thường kết hợp giữa kể, tả
với nhận xét ngắn, thản nhiên, thoáng nét châm biếm. “Tôi” được mô tả chủ
yếu qua hành động, phần nhiều đơn giản, mang tính thói quen, đôi khi vô hồn như
thể một hình nhân bằng nhựa dẻo: tôi đi, tôi đứng, tôi nhìn, tôi ngồi,
tôi ngủ, tôi đọc, tôi xem phim, tôi chạm, tôi mỉm cười, tôi đẩy cửa, tôi soi... Hành
động nào cũng đẩy anh ta đến với nghiệm sinh cô độc, chán chường:
Tôi đi xe điện mạ đồng băng qua những tên người
đã chết
Băng qua những ngã tư đường chán chường mồ hôi
nách của nhau
Đi về phía biển
Nơi một con còng trên bờ đang chạy thi với bóng
của chính nó
(Xe
Điện Mạ Đồng)
Cảm giác sống của con người chỉ thực sự được
đánh thức bằng những chi tiết đời sống nhỏ bé, “không đáng kể”, đôi
khi trần trụi, thô giản: “Tôi thức dậy hai lần giữa đêm, một lần đi
tiểu và một lần đứng ngắm/ Những vì sao trên trời”. Chúng được
cảm nhận chủ yếu qua thị giác, thính giác, xúc giác, “giữa cần câu, giẻ
rách, và các câu chuyện ướp muối giản dị hơi đượm mùi tự kỷ”.
Chế tạo thơ ca có những bài thực sự gây ấn tượng (Trong Những
Chiếc Tàu Ngầm, Ở Nhà Một Người Câu Cá, 1858, Tấm Ảnh Những Năm 60, Khai Quật...
) Không hiếm những đoạn hay, gợi cảm giác và trí nghĩ. Và những rung động sâu.
Bây giờ, hãy trở lại vấn đề “chế tạo thơ ca” mà tác giả đã
đặt ra. Thơ có cần kỹ thuật không? Đương nhiên là cần, thậm chí còn phải là kỹ
thuật cao tay. Bằng cách đưa ra những ví dụ “chế tạo thơ ca” cụ thể, sinh động,
trình bày chúng trong quá trình hình thành, Phan Nhiên Hạo cho người ta thấy rõ
hơn tầm quan trọng của phương diện kỹ thuật, từng bị xem chỉ là yếu tố phụ trợ
trong thơ, bên cạnh tư tưởng, xúc cảm. Chẳng hạn, các thao tác chuyển đổi từ
hình thức của văn bản khoa học sang hình thức thơ như ngắt dòng, tạo khoảng
trắng trên văn bản, nén chữ - giãn chữ, in đậm chữ v.v.; công khai đường dẫn
đến các văn bản, tài liệu nguồn đã được sử dụng dưới dạng vật liệu thô trong
quá trình tái chế/ chế tác thơ ca; hoặc, sử dụng kỹ thuật cắt dán, lắp ghép,
chuyển cảnh, quay chậm trong hội họa, điện ảnh... Quá trình làm thơ, qua cách
nhìn và mô tả của Phan Nhiên Hạo, đã bị “lột trần” mớ xống áo huyền thoại bí
mật vốn có, trở thành một hoạt động chế tác kiểu công nghệ. Những bí ẩn của nó,
được giấu kín trong phòng tối bấy lâu, đã bị “phơi sáng” hoàn toàn qua cách
trình bày tường minh, mạch lạc này. Nó trở thành một dây chuyền sản
xuất, không hơn, với vật liệu đầu vào - quá trình chế tác - sản phẩm
đầu ra. Quả thực, xét cả về ý tưởng lẫn cách trình bày đều hết sức độc
đáo và thú vị.
Nhưng vấn đề cũng nằm chính chỗ ấy. Cũng giống như khi đứa
con được thụ thai vào lòng mẹ, khi nào và ở đâu thì trong thân xác ấy xuất hiện
linh hồn? Khi nào và ở đâu, cái linh hồn thi ca sẽ xuất hiện và biến cái văn
bản báo chí/ khoa học này thành một “bài thơ”? Làm thơ không phải là chế tạo
kiểu công nghệ robot. Bất chấp những kỹ thuật công nghệ đỉnh cao, thi tính vẫn
rất có thể không xuất hiện (dĩ nhiên, thi tính thế nào, lại là vấn đề khác, xin
không bàn ở đây. Theo tôi, một số bài như Hà Nội 1, Sau Cái Chết Xấu,
Thư Nguyễn Quốc Chánh, Ẩm Thực Ở Một Làng Quê vẫn chỉ dừng lại ở những thử
nghiệm, những gợi ý tìm tòi hình thức). Nếu hình dung một bài thơ đúng nghĩa
phải là một chỉnh thể trọn vẹn, thống nhất - một sinh thể, như người
ta vẫn nói - thì đâu là điểm chập nổ, khởi sinh sự sống, biến các yếu tố tư
tưởng, xúc cảm, kỹ thuật riêng lẻ kết nối vào nhau để tạo thành BÀI THƠ? Với
trường hợp Phan Nhiên Hạo, ở những bài thơ của anh, chẳng hạn Trong
Những Chiếc Tàu Ngầm, Ở Nhà Một Người Câu Cá, 1858, Tấm Ảnh Những Năm
60... điều gì mới thực biến chúng thành thơ? Là tư
tưởng (triết học, xã hội, mĩ học)? Là nguồn nhiệt hứng xúc cảm? Là
kỹ thuật viết? Hay là phải toàn bộ những yếu tố kể trên? Còn nữa: là lý trí chế
tạo nên sinh thể đó bằng các thao tác kỹ thuật hay còn có sự trợ giúp của yếu
tố khác trong quá trình sáng tạo, là vô thức, trực giác?
Thật ra, tất cả những điều nói ở đây hoàn toàn không mới. Về
điều này, chắc chắn Phan Nhiên Hạo hoàn toàn không ngây
thơ, thậm chí, anh còn hơi quá tinh quái nữa là đằng khác, khi đặt vấn đề theo kiểu
phản - vấn - đề. Không phải những kết luận sẵn có, mang tính định mệnh, thực
chất, Chế tạo thơ ca là một sự trình bày quan điểm, một đề
xuất, gợi ý độc đáo. Tập thơ đã thiết kế nên một tình huống sáng tạo giả tưởng
nhưng buộc độc giả phải đối mặt với một số câu hỏi có tính cốt tử trong sáng
tạo, cụ thể là trong việc làm thơ, từ đó, để bổ sung, điều chỉnh, nhận thức lại
vấn đề. Hoặc, thường gặp hơn, để phản đối, để tranh cãi. Tập thơ quả
thực đã gieo một chất kích thích nhận thức mạnh mẽ, để dẫu đồng tình hay phản
đối, người đọc không thể tiếp nhận một cách ù lì, thụ động. Do đó, đóng góp ý
nghĩa nhất của tập thơ này không nằm ở những sản phẩm thơ “hoàn thiện”, đã
“hoàn tất”, mà nằm ở “tính vấn đề” của nó, hoặc, nói cách khác, nằm ở hàng loạt
câu hỏi mà nó đã đặt/ khêu gợi ra: Bản chất của thơ là gì? Có thể chế tạo thơ
được không? Cái gì làm cho thơ thực sự trở thành thơ?...
Đó không chỉ là vấn đề đặt ra cho độc giả. Thực chất, đó
cũng chính là vấn đề đặt ra với tác giả và những người làm công việc sáng tạo,
đòi hỏi phải được suy nghĩ, lý giải sâu hơn, thấu đáo hơn, rốt ráo hơn. Những
câu hỏi đó thực sự vẫn rất đáng phải nghĩ trong bối cảnh hiện tại. Một khi
tưởng đã đi đến cùng câu hỏi với “sản phẩm thơ ca” thành hình, những câu hỏi
vẫn nằm đó, như một khiêu khích, một thách thức, một mời gọi nghĩ tiếp.
Vinh, 10/7/2019
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1.
Phan Nhiên Hạo (2004), Chế tạo thơ ca 99 – 04, Nxb Văn, San
Jose.
2.
Trong một ngách liên tưởng khác, cũng hoàn toàn bất ngờ, những câu thơ của Phan
Nhiên Hạo gợi tôi nhớ đến thế giới của trí tưởng tượng đáng kinh ngạc trong tập
thơ Tận cùng của lối đi này (Where the Sidewalk Ends) của Shel
Silverstein, bản dịch của Nhã Thuyên.
3.
Inrasara, Phan Nhiên Hạo, lưu vong chuyên nghiệp ở thiên đàng bằng
nhựa, https://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=8042
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét