QUẢ VƯỜN ỔI
Hoàng
Cầm
Nằm trên bãi cát thư tâm
Sông nước sinh thuyền Em đẩy tới
Có gió có buồm có dòng có lái
Trách gì ai xô dạt đến bờ hoang
Em mười hai tuổi tìm theo
Chị
Qua cầu bà Sấm, bến cô Mưa
Đi...
ngày tháng lụi tìm không thấy
Giải yếm lòng trai mải phất cờ
Cách nhau ba bước vào Vườn Ổi
Chị xoạc cành ngang
Em gốc cây
- Xin chị một quả chín!
- Quả
chín quá tầm tay
- Xin chị một quả ương!
- Quả ương chim khoét thủng
Lẽo đẽo Em đi vườn mai sau
Cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng [1]
Hoàng
Cầm cho biết ông viết Về Kinh Bắc
trong khoảng từ lập thu 1959 đến giữa xuân 1960 [2], sau sự kiện Nhân Văn Giai Phẩm. Tuy vậy, phải đến năm 1994, nghĩa là hơn 30 năm sau, Về Kinh Bắc mới được xuất bản. Tập thơ là
sự trở về với mạch nguồn văn hóa Kinh Bắc, cũng
là sự trở về với tâm tình thiêng liêng của tác giả, dẫu cho, như chính ông nói trong
những dòng Ước nguyện: Bốn tám dáng thơ đi tám nhịp/ Tuần du chưa vợi
khối ân tình. Đó là kết quả của một cuộc tuần du nội tâm lạ thường.
Quả vườn ổi nằm trong Nhịp 5 - Còn Em, trong chùm bài tập trung về chủ đề tình yêu, đặc biệt mối tình Chị - Em nổi tiếng: Cây Tam cúc, Lá Diêu Bông, Cỏ Bồng Thi, Nước sông Thương… “Cốt truyện”, dù sơ giản (vì mục tiêu của nó là trữ tình, không phải thuật sự), vẫn đóng vai trò như xương sống của bài thơ trữ tình này (và khá nhiều bài khác trong Về Kinh Bắc).
Câu chuyện tình yêu được kể lại từ điểm nhìn hồi
tưởng của nhân vật trữ tình - Em. Đấy là mối tình thủa ấu thơ, khi Em mới là cậu
bé “mười hai tuổi tìm theo chị”, trong
không gian thôn dã đã được trữ tình hóa - Vườn
Ổi. Bút pháp hư ảo của
Hoàng Cầm đã bộc lộ sức mạnh ngay cả khi ông nói về những sự vật, sự việc rất đỗi
bình thường:
Cách nhau ba bước vào Vườn
Ổi
Chị xoạc cành ngang
Em gốc cây
- Xin chị một quả chín!
- Quả chín quá tầm tay
- Xin chị một quả ương!
- Quả ương chim khoét thủng
Đi trước, ở thế trên, xoạc cành ngang, là Chị. Còn Em “lẽo
đẽo” “tìm theo chị”, đứng gốc cây.
Lời cầu xin của Em càng ngày càng giảm mức độ, từ quả chín đến quả ương.
Nhưng câu trả lời của Chị, trước sau vẫn chỉ mang hàm ý chối từ: Quả chín quá tầm tay; quả ương chim khoét thủng.
Những câu đối đáp ngắn gọn, tưng tửng, pha chút kịch tính. Xét về sắc thái biểu
cảm, nếu lời cầu xin của Em đầy nghiêm trang, nhẫn nại thì câu trả lời của Chị luôn
hàm chứa sự trêu ghẹo tinh quái. Đây là một hình huống đối thoại mang tính tượng
trưng. Giữa lời trao và lời đáp luôn lấp lửng hai nghĩa - xin quả và xin tình yêu.
Em đã phơi lộ hoàn toàn mối tình của mình qua lời cầu xin run rẩy. Còn Chị, thừa
hiểu tâm tình của Em (có gì mà không hiểu chứ?!) nhưng cố tình không hiểu, để dày
vò trêu ngươi thêm trái tim khốn khổ. Thực chất, hai nhân vật hoàn toàn không
giao tiếp trên bề mặt cuộc thoại. Đúng hơn, cuộc thoại chỉ nhằm mục đích giăng
lên một tình huống trữ tình, qua đó, xoáy sâu nhận thức về sự oái ăm, trái khoáy
nhiều khi đắng chát của tình yêu và cuộc đời. Nên đối thoại thực chất là độc
thoại. Độc thoại với tình yêu, với quá khứ, với nỗi cô độc. Chung cục chỉ là những
câu hỏi hướng về khoảng trống. Bài thơ kết thúc trong dư âm buồn bã, mang sắc
thái bi kịch:
Lẽo đẽo Em đi vườn mai sau
Cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng
Quả vườn ổi kết cấu theo lối song hành. Tứ thơ khai triển đồng thời theo hai hướng trái ngược. Cùng với bối cảnh vườn ổi, chuyện tình Chị - Em được trần thuật một cách khá cụ thể, lớp lang, theo trật tự tuyến tính, cho thấy rõ tính truyện. Kết thúc bài thơ là kết thúc một chuyện tình trẻ con. Nhưng đồng thời, câu chuyện về hành trình đời người càng ngày càng trở nên hư ảo. Hư ảo cả về không gian, thời gian, đối tượng và cái đích tìm kiếm. Càng gần đến kết thúc, tất cả càng trở nên mơ hồ, vô định, không thể kiểm soát, nắm bắt. Hiện tại thoắt trở thành quá khứ. Hiện tại chốc cũng trở thành tương lai ngàn trùng. Lớp lớp chiều kích thời gian đồng hiện trong ảo giác lẽo đẽo Em đi vườn mai sau, trong chiều mưa, cúi nhặt những quả rụng của niềm xót thương, cô quạnh. Nó mở đường cho sự trỗi dậy mạnh mẽ của xúc cảm và liên tưởng. Theo hướng này, càng ngày tính thơ càng rõ nét.
Vườn Ổi, Em và Chị (là cặp đôi biểu tượng xuyên suốt Về Kinh Bắc), cầu bà Sấm, bến cô Mưa, vườn mai sau… là những hình tượng thơ đa nghĩa. Chúng kết nối, đan dệt vào nhau, tạo nên một không gian thơ đầy hư ảo. Nhịp thơ nương theo nhịp hồi ức, vang vọng, đắm đuối, dìu dặt. Tất cả gợi nên một thế giới khác, thế giới của mơ mộng và tưởng tượng, vừa trùng khít với thực tại, vừa rộng mở hơn, mênh mông hơn.
Trở lại phần đầu bài thơ, ta sẽ thấy Quả vườn ổi cũng có lời đề
từ khá đặc biệt:
Nằm trên bãi cát thư tâm
Sông nước sinh thuyền Em đẩy
tới
Có gió có buồm có dòng có lái
Trách gì ai xô dạt đến bờ
hoang
Thoạt nhìn, có vẻ lời đề từ không ăn nhập gì với
nội dung bài thơ. Chẳng hạn, cái không gian “sông nước” trôi dạt mênh mông
trong những câu thơ. Chẳng hạn tư thế “nằm”, cảm giác “thư tâm” của
chủ thể… Tất cả gợi ra tâm thế buông thả, mở ngỏ, sẵn sàng “xô dạt đến bờ
hoang” theo những tác động ngẫu nhiên, tình cờ, xa lạ. Đó là cảm hứng và tâm
thế sáng tạo hướng về đời sống nội tâm sâu kín u uẩn, với sự trỗi dậy không thể
kiểm soát của tiếng nói trực giác, vô thức, tâm linh. Đó vừa là một hướng đi tự
nhiên, vừa là một lựa chọn có chủ ý của hồn thơ mê đắm Hoàng Cầm. Nếu vậy, phải
chăng lời đề từ là một “chỉ dẫn” về không khí thẩm mĩ của Quả Vườn Ổi và
tâm thế đọc cần có khi bước vào không gian thơ Về Kinh Bắc nói chung?
Quả thực, Về Kinh Bắc là hành trình
hướng về một không gian thơ đặc biệt. Về
Kinh Bắc là về với đất mẹ Luy Lâu (Kinh Bắc), kinh đô văn hoá đầu tiên của
nước Việt, về với “hồn dân tộc sáng bừng
trên giấy điệp”. Về Kinh Bắc cũng
là về với những trang huyết lệ của dân tộc, những nỗi đau lịch sử; về với thân phận của Mẹ, Cha và chính
số phận tác giả. Và Về Kinh Bắc cũng
là về với Chị, với mối tình thơ muôn thuở. Đó là không
gian thơ kết đọng nhiều ẩn ức đau đớn nhưng đồng thời đẹp đến hư ảo, dị thường.
Đó là không gian của một giấc mơ siêu thực. Không
ngẫu nhiên khi Về Kinh Bắc, tiếng Em gọi
Chị luôn cất lên, đầy xao xuyến, u hoài:
-
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu bông hời
…ới
Diêu bông…!
(Lá Diêu bông)
-
Em đứng nhìn theo Em gọi đôi
(Cây Tam cúc)
-
Ngày chị bảo em quên
Em
tơ tưởng sao bắt Em đừng nhớ
Tha cho em
Tha Em
“Sông
Thương nước chảy đôi dòng…”
(Nước sông Thương)
Chị
chỉ là cái cớ trữ tình. Đúng hơn, Chị
là một biểu tượng. Cho tình yêu chăng? Cho thơ ca chăng? Hay một giấc mơ u uẩn,
đắng cay, hư ảo của dằng dặc đời người?
Thơ Hoàng Cầm
dày đặc ngôn ngữ, hình ảnh trực giác. Chúng xuất hiện một cách tự nhiên, mê đắm,
hoang ảo, như “tia nước trong vắt phun lên từ ruột đất khi chúng ta thăm dò mạch
nước ngầm” [3] theo cách ông ví von. Đắm chìm vào thế giới nội
tâm, để vô thức, tâm linh cất tiếng, Hoàng Cầm đã tạo nên tiếng nói trữ tình thực
sự riêng biệt. Tiếng nói ấy đã trao cho sự vật, sự việc một đời sống và cách tồn
tại mới. Quả vườn ổi giờ đây đã trở thành một không gian khác. Không
gian của một giấc mơ, vĩnh viễn đẹp và u hoài.
Vinh,
19/2/2021
Làm sao để bắt kịp giấc mơ ấy
Trả lờiXóa