CHỮ
CÁI
Lê Hồ Quang
-
Đấy là “những từ bình thường trong tiếng Việt. Những từ không gây sốc, không
khiêu khích, những từ bình dị, không bao hàm một năng lượng đổi mới nào”. Đấy
là “các chữ cái đơn lẻ, cô độc, độc lập. Các chữ còn chưa kết hợp lại với nhau
để tạo thành từ, các chữ không có nghĩa”.
- "Mỗi chữ cái là một cơ thể, một sinh thể, trong đó các tế từ bào vận động... Chúng
chỉ có một thời hạn ngắn ngủi để sống... Chúng không thể chống lại ý muốn của người
làm ra chúng, người đó, trong khi muốn thoát khỏi một giới hạn này đã vạch nên
một giới hạn khác. Nhưng cũng có thể nói, chúng đã đến như một tiếng gọi, một đòi hỏi được ra
đời và vượt qua cái gọi là ý muốn để ra đời... Chúng bị bó hẹp trong chữ, chúng
không thể sinh sôi nảy nở một cách tự do trong cái cấu trúc thân xác chật hẹp ấy
của chữ cái".
- "Nó không khi nào thuộc về tôi, kể cả khi tôi tưởng rằng đã tạo ra chúng. Tôi và
nó là một mối quan hệ chưa xác định, mặc dù đã được xác lập. Từ đó tôi bước và
và đi ra... để trở thành một cái tôi của chữ".
Hãy
xem tư tưởng này được thể hiện như thế nào trong Chữ cái.
Tập thơ gồm có 19 chữ: T, U, A, L, N, B, G, Ô, R, S, C, X, Z, M, Q, K, V, Y, H.
Tập thơ gồm có 19 chữ: T, U, A, L, N, B, G, Ô, R, S, C, X, Z, M, Q, K, V, Y, H.
T
là chữ cái được trình bày đầu tiên. T là tôi. Tôi là Chữ. Chữ viết nên tôi và
Tôi trình hiện qua chữ. Ý thức về Người viết. Về Ngôn ngữ, tiếng nói sáng tạo
riêng.
U
là một cuốc săn đuổi giữa Tôi và Từ.
A
là một cuộc rượt đuổi của Từ với vô tận. Khoảng cách của nó với từ bên cạnh là
“lỗ đen mở ra toang hoác”.
L:
lúa, liềm
N: tiếng nói
B:
một biểu tượng, đại dương – những người đi biển – biển chết/con tàu chết/ những
người đi biển chết; khát nước/ khát vọng
G:
nắng, gió, giới hạn
Ô:
ổ khóa rỉ tét
R:
ám ảnh về sự đứt lìa. Giữa tư duy và cơ thể. Con người và thế giới
S: cảm hứng thế sự. Nỗi sợ tượng hình bằng chữ S. Cơ thể đất nước.
C: cơ thể không giới tính. Vẫn là ám ảnh tôi/ phi tôi. Đầu óc/ cơ thể.
X: từ vẫn ám ảnh tôi/ trên đường/ cơ thể
Z: từ như một món ăn, có mùi vị, hương thơm, sự hấp dẫn...
M: ấn tượng không gian, góc khép mở/ sáng tối/ những bàn chân đặt khít trên mặt đất
Q: quá khứ/ vòng ôm/ em, anh
K: không. Sự phủ nhận triệt để. Không Tôi/ Không thời gian/ không không gian/
Không quá khứ/ Tương lai, anh/ em
V: giọng nói bị chôn. Vực sâu rữa nát. Khát khao nói đúng giọng của mình.
Y: sự phân rã của tôi, khát khao hợp nhất bản thể
H: ánh sáng của Từ, ngôn ngữ.
...
Các
bài thơ được trình bày dưới dạng những chữ cái in hoa. Mỗi bài chỉ có một số lượng
từ ít ỏi nén lại theo khuôn khổ, hình dạng của chữ. Độ cô đọng về mặt số lượng
chữ là yếu tính bắt buộc của những bài thơ – chữ cái. Nhưng đôi khi, vốc chữ ít
ỏi được tãi rộng ra, chiếm khoảng trống khá lớn của mặt giấy, ví dụ trường hợp
chữ T, M, Z... Như vậy, bản thân hình thức trình bày của các bài thơ cũng là một
chỉ dẫn, một gợi ý, hoặc, một ẩn dụ ý nghĩa. Cùng những giới hạn (điều tác giả
đã đặt ra ngay trong Lời nói đầu), trước hết là giới hạn số lượng chữ (và cùng
nó, những giới hạn khác: nghĩa, ý nghĩa, đời sống, khả năng con người v.v. ), sự
trói buộc, cầm tù (định mệnh hay ngẫu nhiên, bắt buộc hoặc tự nguyện...) , chữ
cũng bộc lộ những khả năng/ khả năng tự do của nó. Cùng với sự thử nghiệm gò
ép, uốn nối chữ, tác giả cho ta thấy độ nén, khả năng chịu đựng của chữ, sự tới
hạn của chữ và cả sự bùng nổ, trương nở của nghĩa trong chữ - từ những cách đọc
khác, hiểu theo nghĩa cụ thể nhất. Ở các bài thơ Chữ cái, ta có thể đọc theo
nhiều cách, từ trái sang phải, trên xuống dưới, hoặc ngược lại. Không hẳn để chơi
chữ, dẫu rằng cách đọc nó rất gần trường hợp thơ thuận nghịch của thời trung đại,
Chữ cái là một trình bày bằng hình tượng
cụ thể về tính chất chất mở của thơ và thơ hiện đại nói chung (trường hợp thơ
thuận nghịch không hướng đến mục đích này).
Từ
Huy căn vặn những giới hạn của Chữ bằng một đầu óc khoa học, chị nén/ uốn/ vặn/
xếp đặt các chữ cái như những đồ vật/ công cụ ngoài mình. Giữ một cái nhìn quan sát khách quan tối đa, nhà thơ mô
tả Chữ cái trong quá trình kết hợp và tạo nghĩa, trong mối quan hệ vừa phụ thuộc
vừa đối kháng với chính tác giả. Nhưng từ các chữ cái đơn lẻ trong bảng ký tự
ABC đến khi trở thành các bài thơ Chữ cái,
chúng đã tồn tại trong tư cách sinh thể độc lập, đối lập với Người sáng tạo, bộc
lộ những khả năng, năng lượng không thể kiểm soát. Điều này nằm ở bản thân tính
ký hiệu của Chữ, tính cấu trúc của ngôn ngữ, độ mở trong khả năng phát nghĩa và
dĩ nhiên, tiếp nhận của độc giả. Trong “cái cấu trúc thân xác chật hẹp ấy”, Chữ
cái tự nó sinh sôi, vận động, trương nở nghĩa. Không cần và cũng không thể là
Thượng đế trong trò chơi sáng tạo. Nhưng cũng không cực đoan đến mức Thượng đế/
tác giả đã chết. Ở đây, quan hệ giữa người sáng tạo và tác phẩm được diễn tả như một mối quan hệ đầy nghịch lý.
Hiểu và chấp nhận nó, chính là khi ta đã bước sang bên kia vạch giới hạn. Và đối
mặt với những giới hạn mới.
Chính
sự bất lực, không thể kiểm soát nghĩa của chữ là một minh chứng cho sống động
cho lý thuyết ký hiệu học. Nhưng đương nhiên, không dừng ở đó, nó còn chính là
quá trình con người – Tác giả nhận thức về chính mình và giã từ ảo tưởng mình
là Thượng đế trong thế giới duy nhất do mình tạo ra. Một nhận thức đầy đủ hơn về
hiện thực, về thế giới và về cái tôi tác giả đã xuất hiện, thế chỗ cho ảo tưởng
về vị thế bất khả thay thế của chính mình trước đó. Là nhà nghiên cứu, hẳn đó
không phải là điều gì mới lạ với Từ Huy. Nhưng là nhà thơ, Từ Huy đã giữ được
cái nhìn tò mò ngạc nhiên thơ trẻ với những con chữ, những con chữ “không gây sốc,
không khiêu khích, những từ bình dị, không bao hàm một năng lượng đổi mới
nào”. Cái nhìn tò mò ngạc nhiên ấy đã
cho Chữ cái khả năng tự làm lạ chính
nó. Đấy là sự ngạc nhiên cần thiết của người sáng tạo.
Chữ cái
của Từ Huy là một thử nghiệm hình thức để đẩy chữ tới những giới hạn của nó, ở
đó, chị quan sát và khám phá hành trình phản kháng, giẫy giụa, nổi loạn của nó.
Hành trình nó từ chối là một công cụ để trở thành một sinh mệnh. Ở đó, chị cũng
quan sát và khám phá cái Tôi của mình, từ vị thế toàn năng của Đấng sáng tạo,
phải thức tỉnh về vị trí thực sự của mình, kẻ đã đưa đứa con của mình vào đời
và bây giờ chấp nhận nó dửng dưng từ giã mình để dấn thân vào cuộc hiện sinh tự
nó. Chấp nhận mình chỉ là yếu tố tiền đề, được trình hiện trong nó, qua nó,
không phải là kẻ chi phối, dẫn dắt chỉ bảo. Sự thức tỉnh đó không hoàn toàn dễ
chịu, với quan niệm truyền thống.
Dĩ
nhiên, đấy là nói trên phương diện lý thuyết. Dẫu nói rằng Chữ có sinh mệnh,
song dưới sự “áp chế” của tư tưởng chủ đạo và kỹ thuật trình bày, đôi khi các
chữ cái giãy giụa trong khuôn khổ của nó và những ý tưởng (chứ chưa phải tư tưởng)
được trình hiện cách trực tiếp, chưa đủ sức để trở thành các biểu tượng đa
nghĩa hơn. Việc trình bày về giới hạn/ hạn chế của Chữ bằng một hình thức mô phỏng
chính điều đó, điều này cũng tạo nên những giới hạn của việc phát nghĩa. Không
phải lúc nào những bài thơ trong Chữ cái cũng đạt đến độ mở của nghĩa.
Cấu
trúc khá chặt chẽ của tập thơ tạo ra một gợi ý, đồng thời cũng là một áp lực đi
đến cách hiểu rằng Từ Huy viết Chữ cái
như một hành động kiểm nghiệm quan niệm của chị đã hình thành trước đó. Như vậy,
sáng tạo, ở góc độ này và với tác giả này, sẽ được hình dung như một hành trình
khá thuần lý. Nhưng, cũng từ nhận thức về mối quan hệ giữa tác giả và Chữ/ Tác
phẩm đã được tác giả phát biểu ngay từ Lời nói đầu, hãy thử một cách đọc khác,
thoát ra khỏi sự “áp chế” của người viết. Hãy bắt đầu từ văn bản, từ những Chữ
cái. Khi đó, một lần nữa, ta sẽ thấy sự bướng bỉnh, ly tâm, nổi loạn thật sự của
Chữ, đồng thời, cũng thấy được vẻ đẹp sống động của nó trong quá trình phát
nghĩa nhờ vào sự cộng sinh giữa Chữ và sự Đọc. Sự “chứng nghiệm”, lần này sẽ đến,
không phải để củng cố, xác nhận điều tác giả đã nói sẵn, mà là sự tự nhận thức,
tự trải nghiệm của chính người đọc trên hành trình nghiệm sinh cùng Chữ. Đó là
điều cần thiết hơn với người đọc.
Nhìn
nhận thơ từ góc độ ngôn ngữ, bắt đầu từ chữ, trước đó, đã xuất hiện trong thơ
Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Lê Đạt, Dương Tường và tiếp đó là Nguyễn Hữu Hồng
Minh, Trần Nguyễn Anh, Như Huy, Nhã Thuyên... Nằm trong mạch “thơ ngôn ngữ”
đó, Chữ cái của Từ Huy đặt trọng tâm
tìm kiếm bản thể ý nghĩa về Chữ, rộng ra, là về Thơ và cố gắng thể hiện tư tưởng
đó bằng một hình thức kỹ thuật trình bày tương thích. Thơ của Từ Huy có một
hình thức thích hợp và gây ấn tượng mạnh hơn cả, vì tính thị giác triệt để của
nó. Chữ cái vừa là chủ đề, vừa là hình thức thích hợp nhất để nó thể hiện những
suy tư về chủ đề ấy. Đồng thời, xuất phát từ hình thức nguyên thủy của con chữ,
tự hình thức ấy có thể “nói lên” tiếng nói bản mệnh của ngôn ngữ, của hình thức
thơ, trước khi phải nhờ tới sự trợ giúp của các yếu tố khác, ngoài nó. Chữ cái,
như vậy, là một hệ thống, bao gồm trong nó những hệ thống nhỏ khác: từ/ câu/ lời
nói/ ngôn ngữ/ ý/ nghĩa/ biểu tượng... Nhưng nếu như hành trình của Chữ tìm đến
nghĩa là hành trình mở, đầy ngẫu nhiên, bất định, nổi loạn, không thể kiểm
soát, thì kết thúc của Chữ cái cũng vẫn là sự không hoàn kết. Hành trình của Chữ
luôn là hành trình mở ra những bất an, những mơ hồ, những lỗ đen nhận thức. Đó
là hành trình con người trình hiện chính mình trong ý thức về sự bất khả, nhưng
không chấp nhận bỏ cuộc. Chữ cái hấp
dẫn chính vì nó đã trình bày Chữ như một cuộc hiện sinh của Người, với tất cả sự
bất an ấy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét