ÂM THANH CỦA TƯỞNG TƯỢNG
(Đọc tuyển thơ Châu thổ của Nguyễn Quang Thiều,
Nxb Hội Nhà văn, 2010)
Lê Hồ Quang
1. Ấn tượng đầu tiên của nhiều độc giả về thơ Nguyễn Quang Thiều có lẽ là... dài. Những bài thơ văn xuôi lê thê. Câu chữ rậm rạp, rườm rà như vườn hoang lâu ngày thiếu bàn tay chăm chút, xén tỉa. Các động thái trữ tình cường điệu thái quá (chẳng hạn có người từng nhận xét cái tôi trữ tình này quá là hay... khóc!). Hình ảnh nhiều khi rất “tù mù siêu thực” nhưng có khi lại vẫn rất “ướt át” kiểu lãng mạn chủ nghĩa điển hình... Đấy quả thực là những rào cản tiếp nhận dễ khiến người đọc nản chí. Nhưng nếu “chọc thủng” được cái ấn tượng bất lợi ban đầu để dấn sâu hơn vào thế giới nghệ thuật ấy, ta sẽ hiểu lý do vì sao Nguyễn Quang Thiều được xem là một gương mặt nổi trội và có ảnh hưởng mạnh mẽ tới xu hướng cách tân thi pháp trong thơ Việt đương đại. Trên thực tế, ông đã xây dựng nên một quan niệm về thơ rất khác, thậm chí đối lập so với nền thơ đồng hành mà ở đó thống ngự vẫn là những quan niệm truyền thống. Quan trọng hơn, bằng lối viết của mình, ông đã tạo nên một không gian thơ đặc trưng. Ở đó, nhà thơ vừa là kiến trúc sư, người thiết kế - kiến tạo, đồng thời cũng là người đồng hành mê đắm cùng ta trong một cuộc phiêu lưu nội tâm bất tận, dữ dội và mê hoặc.
2. Có thể hình dung Châu thổ như một cấu trúc quan niệm, trong đó, từ lời tựa đến các phần, chương mục hay các bài thơ... đều được lựa chọn và sắp xếp theo một trật tự nhất định, chúng liên kết với nhau tạo thành chỉnh thể, thể hiện rõ cái nhìn/ cách nhìn độc đáo của nhà thơ về thế giới cũng như bản thân thơ và sự sáng tạo. Trong căn phòng của một người bại liệt là một sự chỉ dẫn rất đáng chú ý. Trong lời tựa giàu chi tiết và cảm giác này, ta dễ dàng nhận thấy giọng nói, cụ thể là giọng nói của người bà bại liệt, là hình tượng được khắc họa đặc biệt tập trung và nổi bật. Hãy chú ý tới đoạn kết thúc sau:
“Và qua chính giọng
nói ấy của bà tôi, tôi đã lưu giữ trọn vẹn những gì đã qua đời sống này ở
làng quê của tôi. Một đời sống mà chẳng bao giờ mất đi như ta tưởng. Một đời
sống làm ta hình dung đầy đủ hơn về vũ trụ. Một đời sống đã hóa giải dục vọng
của chúng ta. Nó đôi lúc mang đến cho tôi một cảm giác nếu tôi chém vào không
gian một nhát dao thì ở đó một cái cây trong suốt bị đổ gục, một ngón tay trong
suốt bị đứt lìa... Và kỳ diệu hơn, là trong thế giới trong suốt, hay trong cõi
hư vô làm ta có thể chết vì khiếp sợ lại hiện lên một phong cảnh đầy đủ nhất.
Phong cảnh ấy, đối với tôi, nó là một cõi. Cái cõi ta vừa làm đầy nó vừa không
chiếm lấy dù chỉ một điểm nhỏ nhất, mà chỉ có trí tưởng tượng kỳ diệu (LHQ
nhấn mạnh) mới có thể lờ mờ nhận ra”.
Ở đây, giọng nói đã
được biến thành một biểu tượng. Đó là âm thanh của tưởng tượng, “một trí tưởng
tượng vô cùng hoang dại, và bằng những cơn mơ bất tận, đầy nhạc tính”, “luôn
chuyển động và sinh nở và biến ảo”. Nó đánh thức “kí ức và ý thức sống”, “tạo
dựng những mối liên hệ bí ẩn”, “gợi mở về một hình thức nào đó của vật chất đã
mất’, “dựng nên một đời sống khác”, “một nhận biết khác”. Thực chất, đấy cũng
là một cách nhìn/ nhận thức về thơ theo cách của Nguyễn - Quang - Thiều - thi -
sỹ. Một cách nói giàu hình tượng, đa nghĩa và cũng không dễ phân tích, cắt
nghĩa, nhưng bù lại, rất giàu sức gợi.
3. Không khó để nhận ra
gương mặt cái tôi cảm xúc của Nguyễn Quang Thiều trong những sáng tác thời kỳ
đầu. Gắn bó với với làng quê và những giá trị tinh thần nguồn cội, nặng lòng
nhân sinh thế sự, khao khát tự do và cái mới trong sáng tạo, ông thường tự mô
tả qua hình tượng một con người ưa giãi bày, thổ lộ, nhiều khi khá lộ liễu và
thống thiết. Tuy vậy, chính nhu cầu nhận thức và lý giải thế giới, chứ không
phải nhu cầu giãi bày cảm xúc, sẽ dẫn nhà thơ đi xa hơn trong những cách tân
thi pháp. Trong các sáng tác về sau, từ cái tôi cảm xúc, trực tiếp giãi bày dần
chuyển sang cái tôi suy tưởng, tượng trưng:
Tôi suy tưởng về đại
dương
Những
chiếc chum sành nửa bóng tối
Những
con cá ướp
Đã
than thở, đã hát ca, đã xòe vây lộng lẫy
đã
hoan hỉ ra đi, dòng trứng phun chảy như nham thạch
những
hải lưu ấm nóng và bất tận.
Giờ
bên cạnh những hạt muối chứa đầy ký ức biển
Những
con cá bất động
Sự
suy tưởng của tôi dội vang những đợt sóng
Chiếc
chum sành lắc lư
những
con cá ướp
phun
chảy những dòng trứng
nở
ra những con cá
trong
dòng hải lưu suy tưởng bất tận của tôi.
(Những
con cá ướp)
Từ đây, hiện diện trong
thơ Nguyễn Quang Thiều là một cái tôi chìm đắm trong suy tư, mơ mộng, tưởng
tượng. Những vang động của đời thực bị mờ nhòe đi để tiếng nói mơ hồ u tối lạ
lẫm của trực giác, tâm linh trỗi dậy, vang xa. Càng tiến sâu vào nội tâm, những
giác quan của con người càng được mài sắc, trở nên đặc biệt bén nhạy, có khả
năng nghe thấu cả những âm thanh siêu hình của vũ trụ và đời sống nhân sinh.
Có một biểu tượng giác
quan thú vị và cũng hết sức đặc trưng trong cách hình dung, mô tả của Nguyễn
Quang Thiều về nhà thơ - người sáng tạo. Không phải là đôi mắt (Đôi giếng
mắt như chứa trời vạn hộc - Xuân Diệu), khuôn miệng hay đôi tay (Làn
môi mong mỏng tươi như máu/ Đã khiến môi tôi mấp máy thèm; Chắp tay tôi lạy cả
miền không gian - Hàn Mặc Tử) mà là “một cái tai”, “cái
tai rộng lớn của cô đơn”:
- Ngồi cúi đầu trong chiếc ghế gỗ bạc sơn chàng im
lặng như chết
Ánh
tà dương dần dần biến mất trên những ô cửa
Chàng
co người lại, thân thể chàng biến thành một cái tai
Chàng
run rẩy trong đời sống của thính giác bí ẩn
Thế
gian không có gì phân cách và mọi âm thanh
Chàng
đều nghe thấy bằng cái tai rộng lớn của cô đơn
Cả
tấm lưng nằm xuống thiếp ngủ
Và
cả tiếng dừng lại của hơi thở
Chàng
trở thành kẻ điên khùng của thế giới câm ngọng
Và
luôn luôn mang gương mặt của đứa trẻ đau ốm
Nhưng
đêm đêm đầu chàng lắc lư một quả chuông lớn
Tiếng
nó làm rung những ngọn cây và những quả đồi
(Nhà
thơ)
- Ôi
những tháng năm hỗn loạn này chúng ta từng cất tiếng và chúng ta thất bại. Có
những đêm trong giấc ngủ chúng ta nghe tiếng chuyển động phía trên đầu. Chúng
ta cố lắng nghe, nhưng đôi taichúng ta rũ như lá héo. Chỉ hơi thở
kẻ nát rượu cũng làm đôi tairụng xuống. Đã có lúc chúng ta lau
chùi đôi tai như lau chùi một đôi đĩa cổ.Chúng ta ngắm nhìn đôi tai nhưng không
biết để làm gì. Lời của chúng ta từng bất lực trong chính cái lưỡi của
mình.
(Nhân
chứng của một cái chết)
Có thể thấy ở đây một
nét phong cách quen thuộc của Nguyễn Quang Thiều. Chỉ riêng về mỗi cái tai
thôi, ông cũng muốn tô thật đậm, chạm khắc thật tỉ mỉ, kỹ lưỡng, bằng thật
nhiều hình ảnh, chi tiết mô tả, so sánh, liên tưởng... Thực ra, nghe
bằng tai thì đâu có gì mới! Cái mới (và lạ) chỉ xuất hiện khi nhà thơ
biến cái tai ấy thành một thứ “siêu giác quan” tinh thần, thứ thính giác bí ẩn
của “trí tưởng tượng kỳ diệu”. Thế nên thế giới thơ Nguyễn Quang Thiều tràn
ngập âm thanh,“những tiếng ngập ngừng, rồi thanh thoát và dâng khắp”. Có
những âm thanh của tự nhiên: tiếng côn trùng, tiếng chim “dứt thịt dứt da”,
tiếng mèo kêu, chó sủa, tiếng dòng sông, tiếng sóng biển... Có âm thanh của con
người: tiếng khóc, tiếng than thở, tiếng cười, giọng nói... Không chỉ vậy. Thơ
ông còn “vang vang” những âm thanh siêu thực, lạ lùng: Có ai đó
gọi tôi qua linh hồn của ô cửa sổ/ Có ai đó gọi tôi dọc linh hồn của những ngõ
sâu/ Và ai nữa gọi tôi từ nấm mộ ngôi nhà (Con bống đen đẻ trứng); Một
cánh hoa rụng xuống và anh nghe có người vật ngã/ Rồi vang lên tiếng rên rỉ đôi
môi chảy máu/ Nơi cửa sổ nhô lên những cái bóng/ Cùng tiếng huyên náo to dần
của những gốc hoa (Hồi tưởng)...Đặc biệt, cái tai siêu
hình ấycho ông khả năng “nhìn thấy vẻ đẹp diệu kỳ/ Trong những gì luôn đe
dọa người khác”. Cả cái chết, qua tai ông, cũng đầy cảm giác:
- Những
ngôi mộ lặng im và suy nghĩ triền miên về sự sống và cái chết. Và tôi thấy tỏa
về xa xăm ánh sáng ngôi sao. Tôi nghe thì thầm một giọng nói. Và thời gian năm
tháng ấy đi qua tôi náo nức, và bí ẩn, và câm lặng một niềm tin.
(Nhân
chứng của một cái chết)
- Chúng ta thường chăm
sóc những ngôi mộ
bằng
nỗi sợ hãi và tiếc thương
Nhưng
ít người chúng ta nhìn thấy
Cỗ
xe tang lộng lẫy
Trong
tiếng trống tưng bừng...
Và
càng ít hơn những người
Sau
chén trà buổi tối
Ngồi
trên tràng kỷ
Nghe
bài điếu văn viết cho mình
Vang
lên với một giọng trầm
Trong
một tối mùa thu tuyệt đẹp.
(Thay
lời nguyện cầu)
Âm
thanh, ấy chính là cách để nhà thơ hình dung và tái thiết thế giới. Qua kênh
nhận thức thẩm mĩ có tính đặc thù này, thế giới thơ Nguyễn Quang Thiều hiện lên
chênh vênh giữa đường biên thực/ ảo; chân xác/ mơ hồ; nên thơ/ kỳ dị; quen
thuộc/ khác thường... Và ngập tràn những âm thanh, hình sắc, đường nét, hương
vị đặc biệt, như chỉ tồn tại trong giấc mơ và trí tưởng tượng hoang dại, đẹp
một cách tráng lệ, kỳ vỹ.
4. Càng ngày, trong thơ
Nguyễn Quang Thiều, những âm thanh tượng trưng bí ẩn càng dội lên, lấn át thanh
âm đời thực. Cũng là tiếng chim, nhưng Nghe tiếng chim cuốc mới
dừng lại ở ẩn dụ tâm trạng. Nhà thơ vẫn phải dựa trên trục liên tưởng logic để
khêu gợi xúc cảm và nhận thức sự vật: Hỡi con chim kêu suốt cả mùa hè/
Kêu buồn rầu dưới những bờ tre/ Kêu khắc khoải miên man bên đầm cỏ lác/ Ba mươi
tuổi một mình ngồi im lặng/ Tiếng chim kêu dứt thịt dứt da; Nhưng
đến Bài ca những con chim đêm đã rất khác. Việc bỏ qua
cây cầu nối giữa hiện thực và mơ mộng, để óc liên tưởng, tưởng tượng phát huy
cao độ sức mạnh, đã phá hủy logic thực tại giữa các sự vật, tạo nên những tương
quan mới, đầy bất ngờ giữa các sự vật, hiện tượng:
Xối vào không gian như
máu ngập tràn
Còn một tiếng, con chim đêm, đập cánh và vọng xuống rền
rĩ...
Làm
phụt tắt ngọn đèn quán ăn khuya hết khách
Làm
bật tung những răng sâu, làm mở toang cánh cửa
Làm
lưỡi câu nơi đáy hồ xúc động run lên...
Không
kịp thức giấc
Chỉ
vọng lại xa xăm tiếng lá thở mơ hồ
Người
làm vườn trong mơ cầm kéo cắt tóc những đứa con
cắt
cả tóc chính mình, cắt cả vào mây trắng
và
thị trấn sớm mai như chưa nhìn thấy
Chỉ
còn những dấu cây bỏ mặt đất ra đi
Cả
những cánh cửa gỗ cũng ra đi, cả bàn, cả ghế
và
chiếc nôi cũng ra đi, và cả một nóc nhà...
Theo đó, tiếng con chim
đêm “vang lên từ cổ họng nóng hổi và ẩm tối/ Xối vào không gian như máu ngập
tràn” đã thức dậy những cảnh tượng dị thường - “một đời sống hận thù,
bạc nhược, vô sinh”, một hiện thực bị lộn trái, như trong ảo giác và những
cơn mê sảng. Nhưng âm thanh ấy cũng thức tỉnh nội tâm, khiến con người “lần
đầu tỉnh giấc giữa khuya”, bàng hoàng nhận ra “chính bản thân mình”.
Âm vang trong không gian “mênh mông” và “vang xa bất tận” là bài
ca “đơn độc và rền rĩ” của con chim đêm, kẻ phải mang vác trên đôi cánh
một định mệnh bí ẩn, lớn lao và nhọc nhằn.
Hướng về thế giới bằng
cái tai siêu hình, Nguyễn Quang Thiều đồng thời cũng phát hiện ra thơ như là
thế giới của Âm nhạc, hòa thanh của tiếng trống, tiếng kèn, tiếng sáo, tiếng
nhị... Thứ âm nhạc gọi dậy sự sống, sự tái sinh từ trên cái chết, đánh thức ánh
sáng, tình yêu và sự cứu rỗi từ trong tăm tối, bi thương, điêu tàn. Như lời
thiêng từ cõi cao xa vọng xuống, như tiếng nức nở từ cõi trần ai. Đó là thứ âm
nhạc mang tính nghi lễ mở vào cõi thơ cao cả, siêu nghiệm:
Âm nhạc đến với người -
Âm nhạc không bao giờ bị vấy bẩn
Đến
trong trống - linh hồn của kiêu hãnh, khát vọng mang cảm xúc vĩ đại
Đến
trong nhị - linh hồn những góa bụa chói sáng và nước mắt đẹp buổi tối
Đến
trong kèn - linh hồn những cổ họng chứa đầy ánh sáng bi thương
Bị
chém đứt trong cơn phản loạn của phẩm hạnh ngôn ngữ,
Âm
nhạc phủ miền cây lá xum xuê, nồng ấm quanh người
Âm
nhạc tưng bừng mở những mùa hoa nến
Âm
nhạc lùa gió từ mọi đỉnh núi, và nước từ đầu nguồn mọi con sông
Âm nhạc đến thổi ấm những tiếng gọi đã chết đột ngột vì
lạnh
(Nhịp
điệu châu thổ mới)
Từ đây, việc đánh thức
những năng lực khác thường của đôi tai, thực chất là đánh thức và mở rộng tiếng
nói linh giác, đã giải phóng những năng lượng tinh thần lớn lao, khiến bản thể
cá nhân nhà thơ có thể tuyệt đối hòa nhập vào bản thể vũ trụ trong thứ ánh sáng
và âm thanh vô lượng vĩnh cửu:
Chàng
quỳ xuống và ngước lên Cây Ánh sáng vĩ đại nhất đang lan tỏa tán lá ban mai
khổng lồ
Miệng
chàng mở những cánh đồng hoa rực rỡ và giọng nói chàng cất lên
Hòa
cùng giọng nói của côn trùng, của sói của đại bàng, của lạc đà trong cùng ngôn
ngữ
Và
lúc này dù chàng là côn trùng, là con sói cô đơn, là đại bàng, là lạc đà, là
quỷ dữ...
Thì
tất cả đều đến được miền đất ngập tràn ánh sáng, tất cả đều được hòa làm một
Trong
một ánh sáng ấy, một âm nhạc ấy, một ngôn ngữ ấy, trong một bầu trời ấy
Và
Người đã biến chàng trở thành một chiếc lá nhỏ không bao giờ tàn úa
Trên
cành của tán lá ban mai kỳ vĩ trong vũ trụ ngập tràn.
(Cây
Ánh sáng)
Khi hiểu nhà thơ lắng
nghe và cắt nghĩa thế giới bằng một cái tai quá chừng
đặc biệt, ta cũng sẽ hiểu vì sao giọng nói con người trở thành
biểu tượng quan trọng đến vậy trong thơ Nguyễn Quang Thiều. Đấy gần như là một
thứ âm thanh siêu thực, bị/ được trừu xuất khỏi đời sống cá nhân, thiếu vắng
gần như tuyệt đối những âm sắc cá thể, dù sống động và ám ảnh dị thường: Giọng
nói hôm qua còn tuyệt vọng trước bức tường im lặng; Chỉ tiếng
nói nổi lên như từng chùm tăm cá; Và bây giờ giọng chúng ta vang
trên những cành cây lưng trời;Một tiếng gọi từ vùng
thẳm sâu không có những cái miệng; Một đám mây bay ở rất xa/ Cất tiếng
gọi; giọng nói/ Đang lớn dần từ đáy thẳm rừng xa; Đêm đêm,
tôi nghe giọng của Người, khàn và vang dội; thầm thì giọng
nói/ bên những ô cửa, bấy giờ lúc nửa đêm, lộng lẫy tuyết bay...
Với
ý nghĩa tượng trưng rộng rãi, giọng nói được chạm khắc nổi bật
trong nhiều tác phẩm quan trọng của tác giả: Nhịp điệu châu thổ mới,
Bài ca những con chim đêm, Hồi tưởng, Cây ánh sáng... Trong Nhịp
điệu châu thổ mới, giọng nói được hình dung như một thứ tài
sản tinh thần thiêng liêng được hình thành, gìn giữ và chuyển giao từ nhiều thế
hệ, qua những biểu tượng nổi bật: Người Nông Dân Già - Những người
đàn bà - Cậu Bé - Người. Giọng nói, ấy là “bình minh linh ẩn”,
“lá cờ khải ca, lá cờ bất tử”, “như ngày khởi sinh, như ngày tận thế”, “thức
dậy những cổ xưa”... Đấy cũng là thứ “ngôn ngữ máu”, “ngôn ngữ ánh
sáng”, “mang ý nghĩa mới tiếng gọi, tái sinh mãi tiếng vọng”:
Đêm vĩ đại và linh ẩn đã
chuẩn bị con đường cho Cậu Bé
Những
quả đồi tự xưng tên tuổi thật của mình
Tất
cả thức dậy và đứng lên, những quả đồi bóng tối
Thức
dậy không quờ tay tìm đèn và không cả ho khan
Thức
dậy và rút những chân hương ra khỏi ngực mình
THỨC DẬY ĐỂ CHÀO ĐÓN MỘT
GIỌNG NÓI
(Nhịp
điệu châu thổ mới)
Trong Bài ca
những con chim đêm, giọng nói cũng chính là một thứ âm
thanh diệu kỳ “mở ra một con mắt/ sáng dần lên một đóa hoa”, có khả năng
phục sinh cái đẹp và nhân tính trong đời sống, lịch sử và sáng tạo, bất chấp “những
ngôn từ nguyền rủa/ những ngôn từ khiếp nhược và lừa dối ngày ngày trên đầu
lưỡi chúng ta”. Ấy là thứ âm thanh sinh nở từ trên nỗi đau câm lặng - “giọng
nói của đứa bé trong bụng người đàn bà câm”, thứ ngôn ngữ khởi thủy,
được viết hoa trên chính văn bản:
Trong
tiếng bầy chim đêm vang vang những tiếng chuông vàng
Giọng
nói của đứa bé trong bụng người đàn bà câm cất lên rền rĩ:
MẸ
HÃY MANG CON LÊN ĐỈNH ĐỒI
Chính
lúc này, nhanh hơn tiếng sấm, nhanh hơn cả tia chớp, chúng ta nhìn thấy
Con
đường và số phận dân tộc chúng ta từ một đỉnh đồi.
(Bài
ca những con chim đêm)
Rõ ràng, giọng nói đã
được khắc họa như một biểu tượng độc lập, nhằm tượng trưng và xác nhận sự hiện
hữu có ý thức và có ý nghĩa của nhân loại. Không phải thứ ngôn ngữ giao tiếp
thông thường, ấy là thứ ngôn ngữ trầm tích vẻ đẹp và sức mạnh nguyên thủy, cổ
sơ của tâm linh và vũ trụ, “hòa cùng giọng nói của côn trùng, của sói của
đại bàng, của lạc đà trong cùng ngôn ngữ”. Đấy là ngôn ngữ của thức tỉnh,
của sức mạnh sáng tạo. Bởi vậy, không gì đáng sợ hơn khi mất giọng - “Sấm
mất giọng, đỉnh núi già mất bóng”.
5. Ý thức tạo lập một
không gian của trí tưởng tượng mênh mông, cuồng phóng, mang hơi hướng tôn giáo
đã tạo nên sắc thái thẩm mĩ đặc thù trong thơ Nguyễn Quang Thiều - Cao cả, Kỳ
bí, Huyền diệu. Những bài thơ ông viết về chủ đề siêu nghiệm thường dài/ rất
dài. Văn bản được chia làm nhiều phần, đoạn (bằng cách ghi số thứ tự chương,
mục hoặc bằng các khoảng trắng). Dù vậy, cách tổ chức văn bản và hình tượng ở
đây vẫn đem lại một ấn tượng tổng thể khá chặt chẽ. Về điều này, xin chú ý thêm
về cách tổ chức của Châu thổ: đi từ Lời tựa mang
tính tuyên ngôn đến bài mở đầu - Lễ tạ với hình ảnh con
đường mở ra và kết thúc bằng Cây ánh sáng, hẳn cũng là một
cách sắp xếp có chủ ý nhằm tạo nên tính cấu trúc chặt chẽ của thi phẩm.
Để tái hiện một cách
sống động và cụ thể hơn những “âm thanh của đời sống”, nhà thơ thường chọn hình
thức thơ văn xuôi. Thơ ông giàu tính tự sự và càng ngày yếu tố kể, tả càng trở
nên dày rậm. Thậm chí trong nhiều bài thơ còn có cả cốt truyện đóng vai trò
khung đỡ cho những quan sát, liên tưởng, tưởng tượng đầy phóng túng. Dù được
soi chiếu từ một con mắt và góc nhìn có vẻ rất xác thực của người kể chuyện
song logic của mạch truyện, nếu có, luôn bị phá vỡ bởi những liên tưởng, tưởng
tượng, những hình ảnh vụt hiện, ngẫu nhiên, không đầu không cuối. Rốt cục, hiện
lên trong câu chuyện ấy không phải là hiện thực đời sống mà là hiện thực của
giấc mơ, hiện thực của trí tưởng tượng. Hiện thực ấy có logic và đời sống riêng
của nó, nó mãnh liệt cuốn ta theo những ảo giác sống động dị thường. Chính sự
kể - mà - không - kể ấy mới thực sự tạo nên độ gợi cảm và tính thơ trong những
tác phẩm có thể gây choáng độc giả bởi độ dài và sự rậm rạp câu chữ. Ở đây, ta
thấy điểm cốt tủy phân biệt thơ với văn xuôi đã được nhiều người nhắc đến: Văn
xuôi tôn trọng cái logic của sự kể, vụ sự việc; Thơ - chú trọng cái thi tính
của việc kể, ấy là thứ ngôn ngữ “tự lấy mình làm cứu cánh”.
Gây ấn tượng mạnh song
cũng thực sự “gây khó” độc giả chính là cách sử dụng hình ảnh và bút pháp tạo
hình của Nguyễn Quang Thiều. Được dựng nên trong một trí tưởng tượng mênh mông
hoang dại, những hình ảnh liên tiếp bùng lên như những que diêm bắt sáng trong
bóng tối, không ngừng chuyển động và bung nở, khuếch tán trong không gian ảo
mờ. Giữa những hình ảnh, sự vật ấy vừa như không tồn tại bất kỳ mối liên hệ nào
đồng thời vẫn có một sự liên kết nội tại đầy bí ẩn. Cái dữ dội và cái nên thơ;
cái quen thuộc và cái kỳ dị; cái thực và cái ảo, nhanh và chậm, mơ hồ và thấu
suốt... tất cả phối trộn vào nhau trong một cảm giác lạ lùng như sự cất tiếng
của giấc mơ đẹp và dữ dội đến ngạt thở. Sự xuất hiện liên tục, liền mạch và
không ngừng nghỉ của hàng loạt chi tiết, hình ảnh “mê man và lộng lẫy”
ấy chỉ có thể được tạo ra bởi sức mạnh và quyền phép bao trùm của một trí tưởng
tượng hào phóng, hội tụ một bản năng và trí năng thơ mạnh mẽ khác thường. Bút
pháp tạo hình này ngày càng đậm hơn trong Nhịp điệu châu thổ mới,
Chuyển dịch màu đen, Đoản ca về buổi tối, Bài ca những con chim đêm, Hồi tưởng,
Nhân chứng của một cái chết, Cây ánh sáng... Nó xuất phát từ tư tưởng
xây dựng một trường không gian thẩm mĩ mới, khác. Không gian của những huyền
thoại hiện đại.
Có thể đọc thấy một sự
nhập thân cao độ, gần như tuyệt đối của nhà thơ trong thế giới và không khí
nghi lễ do chính ông tạo nên - vai trò người truyền ngôn mặc khải.
Theo đó, giọng chủ âm trong thơ Nguyễn Quang Thiều là giọng tụng ca mê đắm,
trang trọng. Giọng điệu này gắn liền với sự hiện diện trực tiếp của chủ thể trữ
tình, của một cái tôi mơ mộng và hướng thượng, trong những tư thế trữ tình nồng
nàn, thống thiết. Âm thanh của giọng điệu ấy, đặc biệt trong những bài thơ dài,
mang hơi hướng trường ca, đã được “kích âm” tuyệt đối, mang tầm vóc lớn lao,
cao cả, gần như siêu linh:
Người đang đi. Kìa!
Người đang đến
Con
đường Người không thay đổi, không mở đầu, không kết thúc
Người
đang đến. Người đang trở về
Con
đường tinh kết. Con đường lan tỏa
Chúng
tôi thấy Người trong Một và trong Vô vàn. Đâu cũng con đường... trong huyết,
trong cốt
Trong
cỏ cây, trong đất, trong nước và gió
và trong những biên giới của hư vô chưa sinh nở con
đường...
(Nhịp điệu châu thổ mới)
Dường như nhà thơ thấy
không cần phải bận tâm nhiều về những vướng víu cảm giác có thể gây ra khi ông
“nhập vai” này trong thơ, ông tin và muốn làm độc giả tuyệt đối tin vào vẻ đẹp
của thế giới linh thánh mà ông đang toàn tâm hướng về. Thực chất, đấy không
phải một thế giới mộng ảo xa lạ, đối lập với thực tại, mà chính là thực tại
được lắng nghe, được tri nhận từ một cái tai khác. Nhà thơ chú
trọng việc phơi mở, giãi bày tận độ xúc cảm, tư tưởng hơn là chú ý tới việc
giải phẫu nội tâm tinh vi thấu tỏ, thậm chí dường như ông còn cố gắng mờ
hóa những khía cạnh sắc lạnh của sự phân tích lý tính để làm nổi trội
hơn tiếng nói mơ hồ của trực giác, tâm linh. Nhiệt hứng tinh thần mãnh liệt này
sẽ truyền lan niềm hứng cảm say mê gần như tôn giáo và ở đó, cái Đẹp, cái Cao
cả chính là Chúa Trời, nhà thơ là linh mục, người truyền giáo, người lĩnh xướng
bản đồng ca nghi lễ, và độc giả sẽ là những con chiên ngắm nguyện nhiệt thành.
Có lẽ bởi vậy nên Nguyễn Quang Thiều đặc biệt chú ý nhấn mạnh giọng điệu chủ
thể. Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất Tôi (với các biến thể như anh, em,
con...) xuất hiện với một tần số rất cao (chỉ riêng trong bài Sông
Đáy, từ “tôi” xuất hiện đến 18 lần!). Thơ ông cũng xuất hiện nhiều lời
than, tiếng gọi, nhiều định ngữ mô tả trạng thái, tính chất kèm theo danh từ
chỉ sự vật tạo nên những sắc thái cảm xúc lồ lộ...
6. Trên thực tế, âm
thanh của tưởng tượng vang vọng trên khắp không gian thơ Nguyễn Quang Thiều.
Chỉ cần một thao tác thống kê đơn giản theo trật tự sắp xếp văn bản của tuyển
thơ sẽ thấy ngay điều này: Lễ tạ, Bầy chó của tôi, Bài hát, Hòa âm
của những đa bào, Gọi hồn, Con bống đen đẻ trứng, Nhịp điệu châu thổ mới, Đoản
ca về buổi tối, Bài ca những con chim đêm, Hồi tưởng, Nhân chứng của một cái
chết, Cây ánh sáng... Do giới hạn của bài viết, tôi chỉ tập trung
vào Hồi tưởngđể phân tích cụ thể hơn về thi pháp thơ Nguyễn
Quang Thiều.
Về dung lượng, Hồi
tưởng khá dài: 15 trang (từ trang 212 đến trang 227). Đấy là sự
hồi tưởng theo thời gian, gắn với thứ tự các tháng trong năm. Riêng nhìn trên
cách tổ chức văn bản, có thể thấy ngay từ đầu ý tưởng thơ đã bị “gò” theo cái
khuôn có sẵn (ở đây là khuôn thời gian 12 tháng/ năm). Cái khung lập tứ là khá
rõ và có phần cứng nhắc, nó tạo áp lực buộc nhà thơ phải tìm kiếm các mảnh ghép
hồi ức tương thích. Nhà thơ không thể ỷ lại cho sự ngẫu hứng, ông buộc phải suy
tính, lựa chọn, sắp xếp. Cái khó là đây: làm sao để vừa đảm bảo tính chặt chẽ
trong cấu tứ mà vẫn không bị lộ tính “sắp xếp”, vẫn phải đảm bảo tính thơ?
Hãy quan sát cách nhà thơ
lựa chọn, tổ chức các chi tiết, hình ảnh hồi tưởng. Chúng phải vừa gắn liền với
ký ức cá nhân tác giả, với những trải nghiệm riêng tư, sâu kín, đồng thời, phải
có khả năng khêu gợi và đánh thức được những vỉa tầng ký ức văn hóa rộng lớn
hơn. Nghĩa là, những hình ảnh trí nhớ ấy phải đạt tới sức mạnh của biểu tượng.
Thế nên, gắn với mốc hồi tưởng từng tháng là những nhát cắt ký ức tưởng chừng
ngẫu nhiên song thực chất là đã được lựa chọn và tổ chức lại bởi nhiều thao tác
của lý trí và của cả trực giác, vô thức (trên thực tế, các “thao tác” này có
thể diễn ra rất nhanh). Tháng Giêng - Hồi tưởng về mùa xuân: Trong
chiếu chăn ẩm ướt/ Mơ con đường tràn hoa tầm xuân/ Chạy qua nghĩa địa...; Tháng
Hai - Hồi tưởng về người bà ốm đau: Tháng sực nức mùi thuốc bắc; góc
buồng ẩm mốc, tiếng ho vỡ đờm trong cổ họng ... Tháng Ba - Hồi tưởng
về nơi nhà thơ sinh ra: mơ thấy ngôi nhà/ treo đầy tã lót... Tháng
Tư - Hồi tưởng về mùa hoa loa kèn, những cây kèn bị lãng quên trong
bóng tối cánh đồng... Một số biểu tượng có vẻ khá quen thuộc, chẳng
hạn hoa tầm xuân tháng giêng; hoa loa kèn tháng tư, mùa thị chín tháng tám...
Không thể phủ nhận là ở đây có sự gặp gỡ giữa ký ức cá nhân nhà thơ với ký ức
văn hóa - tâm linh chung của cộng đồng Việt, và điều này tự nó đã tạo nên một sự
lây lan cộng hưởng cảm xúc khá tự nhiên.
Nguyễn Quang Thiều đặc
biệt chú ý đến cách tổ chức ngôn ngữ, hình ảnh theo lối cảm giác hóa.
Trước hết, ông sử dụng nhiều tính từ mô tả nhằm cá biệt hóa những trạng thái
cảm giác của/ về sự vật: Chiếu chăn ẩm ướt, con đường tràn
hoa tầm xuân, ngón tay xanh nhợt mép giường, một giọng
nói sợ hãi, một bệnh nhân nhợt nhạt, cây thị
vàng rũ rượi... Ông cũng thường khai thác những cảm giác
cá nhân, thông qua việc tái hiện những chi tiết trải nghiệm đặc biệt riêng tư,
dùng chúng để kích thích và gợi dậy một sự tương đồng cảm giác về sự vật, chẳng
hạn hình ảnh “Người hàng xóm góa chồng/ trở về từ nghĩa địa/ Cắm đầy hoa tầm
xuân trong phòng ngủ của mình” vào tháng Giêng; mùi thuốc bắc “sực nức”
cùng hình ảnh “cha tôi mang tóc bà tôi chôn xuống cánh đồng” và “tôi
trốn bà ra khóc tóc bà tôi” vào tháng Hai; cảm giác “rũ rượi”, “mê
sảng”, “ốm đau” trong hoàng hôn tháng Tám (ta có thể thấy rõ điều
này khi đọc thêm tản văn và tùy bút của tác giả). Bất chấp hệ quả dài dòng,
rườm lời, nhà thơ thường xuyên sử dụng nhiều chi tiết kể, tả, liên tưởng, so
sánh... để khắc họa đối tượng, nhiều khi hết sức chậm rãi, khách quan, chi
tiết:
Những chùm bạch đơn bị
kích động bởi hơi nóng
Chầm
chậm duỗi mở những cánh và vươn dài
Một
bệnh nhân nhợt nhạt đi qua và khuất sau bụi cây
Như
thể những chùm hoa vừa tóm lấy, nuốt chửng...
Để tạo nên một ấn tượng
cảm giác nổi bật hơn, “dài hơi” hơn, ông sử dụng cả yếu tố cốt truyện, với
nhiều tình tiết giả tưởng, tưởng tượng. Chẳng hạn Hồi tưởng tháng Ba là
câu chuyện kể về người mẹ “viêm đại tràng mãn tính” hai mươi năm thường
“chập chờn” mơ thấy “ngôi nhà/ treo đầy tã lót” nhưng không
sao nhớ được đường tìm đến nơi đã sinh con. Nhà thơ đã đi tìm ngôi nhà ấy, song
chỉ thấy những hình ảnh đầy kỳ dị, lạ lùng, như trong mơ (vì sự thực là ông
đang... mơ): “bạt ngàn nhà hộ sinh/ những tấm tã lót/ Phơi rợp bầu trời/ Xếp
dọc mọi nẻo đường/ Những bọc trẻ sơ sinh đánh số”... Kết thúc hồi ức
tháng Ba là một hình dung đầy thi vị về sự quên lãng, được gợi ý từ câu chuyện
cổ Alibaba và bốn mươi tên cướp của chúng ta ngày thơ
bé: Để chống lại sự tò mò/ Của chúng ta/ Vào buổi tối/ Khi chúng ta
chợp mắt/ Có người đi quét vôi tất cả những ngôi nhà...
12 tháng trong năm là
mười hai cột bia được cắm lên để chỉ dẫn bước chân hồi ức cá nhân. Nhưng để
đánh thức thi ca, nhà thơ cần nhiều hơn thế. Và vậy là đã đến lúc trực giác,
tiềm thức, tâm linh “cất tiếng”. Và ấy cũng là lúc bản năng thơ sung mãn của
Nguyễn Quang Thiều phát lộ mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Nhiều hình ảnh thơ xuất
hiện như không theo một sự cài cắm, sắp xếp có chủ ý nào, chúng cứ thế mà bật
lên trong những đớn đau, ẩn ức âm u bời rối của con người. Thế nên xuất hiện
rất nhiều những ảo giác, ảo ảnh “chập chờn” hư thực: Cỏ mộ
tóc tốt tươi trong bóng tối; Ngôi nhà trắng chập chờn/ Giữa những ngôi nhà
trắng; Mọi con đường tháng tư biến mất, chỉ còn lại một/ Tôi đứng trên con
đường này và quanh tôi bạt ngàn những cây kèn cô đơn; Trong ánh trăng buốt lạnh
vọng về tiếng gọi/ Một cái bóng lướt trên những luống cây khô trắng cánh
đồng/Vừa xa lạ, vừa thân quen, vừa xua đuổi vừa cố nhớ/ Ánh trăng như đóng
băng, cái bóng dừng lại, nhìn về... Nhiều phân khúc hồi tưởng chính là
những giấc mơ: Hồi tưởng tháng Ba, Hồi tưởng tháng Tư, Hồi tưởng tháng
Sáu, Hồi tưởng tháng Bảy... Nhà thơ tìm kiếm quá khứ, tuổi thơ, lịch sử,
đời sống và sự tồn tại bản thể qua những giấc mơ u tối, miên man, ứ đầy những
cảm giác và cảm xúc trái ngược. Nhưng thế giới của quá khứ và hoài niệm ấy vẫn
chủ yếu được tri nhận bởi một giác quan khác thường: những cái tai
sợ hãi/ rụt rè nhô lên... Có lẽ bởi vậy nên Hồi
tưởng vẫn là thế giới của những âm thanh và cảm giác siêu thực, mơ hồ:
- Một
giọng nói sợ hãi vừa được nhắc lại
Trong
ngôi nhà đầy bóng tối tháng năm
Em
mang về những bông hoa từ cánh đồng xa lắc
Tiếng
nước đổ vào bình gốm vang lên nức nở đều đều
- Bầy dơi xòe những đôi cánh không lông vũ bay về và
kêu rít lên
Hương
thị lượn lờ, thều thào giọng nói
Những
con dơi say thị trên cành từng búi
Tôi
thấy ốm đau tràn ngập khu vườn...
Thoạt nhìn, so với nhiều
bài thơ khác, cụ thể nhưNhịp điệu châu thổ mới, Bài ca những con chim
đêm, Nhân chứng của một cái chết, Cây ánh sáng... có vẻ ý tưởng
của Hồi tưởng không tập trung bằng; những hình ảnh liên tưởng
cũng như tản mác, rời rạc hơn. Song theo tôi, đó chính là một biểu hiện hấp dẫn
khác của tác phẩm, ấy là tồn tại thực tế của hồi tưởng, nó lên tiếng bằng cách
của riêng nó - Con đường trong ngôn ngữ của trí tưởng tượng giữa bóng
tối. Bằng thứ ngôn ngữ ấy, nó đồng thời có thể tái hiện hiện thực nội
tâm một cách trung thành và sống động nhất (tất nhiên, hiệu quả này trong các
phân khúc Hồi tưởng không hoàn toàn như nhau). Xin nói
thêm, thực chất thơ Nguyễn Quang Thiều rất giàu tính luận đề. Ở những bài thơ
thành công của ông, luận đề thường được diễn tả bằng/ qua một thứ ngôn ngữ giàu
hình ảnh và cảm giác. Có lẽ qua Hồi tưởng, một lần nữa, ta
nhận ra nét quen thuộc ở ngôn ngữ thơ Nguyễn Quang Thiều: rậm lời nhưng giàu ám
dụ, giàu cảm giác.
7. So với quan niệm phổ
biến trong văn học cách mạng trước 1975, (vốn đặc biệt nhấn mạnh chức năng
tuyên truyền chính trị của thơ và nghệ thuật nói chung), thì việc đề cao chức
năng thẩm mĩ của thơ, coi trọng sự sáng tạo cá nhân, vẻ đẹp của cảm xúc, trực
giác và trí tưởng tượng phóng túng quả là một sự thay đổi quan niệm đầy ý
nghĩa. Tất nhiên, nhấn mạnh giá trị và vẻ đẹp của thế giới được tạo nên bởi trí
tưởng tượng hoàn toàn không có nghĩa nhà thơ chỉ biết thu mình trong “tháp ngà”
nội tâm. Nếu đọc kỹ hơn, sẽ thấy những vấn đề của hiện thực đời sống đương đại
không hoàn toàn vắng mặt trong thơ Nguyễn Quang Thiều, từ nỗi đau chia cắt quốc
gia, dân tộc, sắc tộc trong Cơn mê, Chuyển dịch màu đen, Trong tiếng
súng bắn tỉa, Cầu nguyện ở thánh đường Thomas More... hay những ám ảnh
kinh sợ về một đời sống đô thị hiện đại đang bị băng hoại bởi sự vô cảm và phi
nhân tính trong Con bống đen đẻ trứng, Bầy chó của tôi, Bầy kiến qua
bàn tiệc, Đoản ca về buổi tối, Bức thư đề ngày 25 tháng 12... Dẫu
vậy, khi coi thơ như “Bản tuyên ngôn của cơn mơ” hay “Trò chơi
của ảo giác”, những đường nét sắc lạnh thực tế của đời sống xã hội đương
đại mà nhà thơ đang trực tiếp tham dự và đối mặt nhiều khi chỉ còn là những ánh
xạ quá đỗi mơ hồ.
Luôn thể hiện một ý thức
và tư tưởng sáng tạo hiện đại, song điều Nguyễn Quang Thiều quan tâm trước nhất
có lẽ không phải là việc thực hành các kỹ thuật viết tân kỳ mà là vấn đề trình
hiện tiếng nói tinh thần chủ thể trong thơ. Chủ thể tính mê đắm hằn trên mỗi
trang ông viết biến mọi hiện thực của đời sống trở thành hiện thực của nội tâm
và xúc cảm nồng nhiệt. Đó là lý do vì sao, như một số tác giả đã nhận xét, dù
thơ ông có vẻ ngoài “Tây quá” nhưng cái cốt lõi chi phối bên trong vẫn là tinh
thần, phẩm tính lãng mạn chủ nghĩa. Trường lực thẩm mĩ này vừa có thể tạo nên
sức hút mãnh liệt nhưng ngược lại, cũng (và trên thực tế là đã) gây ra lực đẩy
gay gắt trong tiếp nhận. Việc thường xuyên đẩy cái tôi lên bình diện thứ nhất
trên văn bản nhằm tô đậm tiếng nói chủ thể kéo theo hệ quả là sự rườm lời và hạn
chế độ ám gợi cần thiết. Mặt khác, với một số độc giả (bởi nhiều lý do, nằm
ngoài lực hấp dẫn này), sự “nhập thân, nhập hồn” tuyệt đối của cái tôi trữ tình
ấy có khi lại chính là điều đầu tiên đem lại cảm giác “sến”/ đại ngôn/ màu mè/
khó chia sẻ... Tính tập trung cao độ của những phát ngôn long trọng và sự thiếu
vắng yếu tố hài hước, giễu nhại cũng gây ra cảm giác đơn điệu, khiến ngay cả
người đọc trung thành, bị “vây bủa” trong trường giọng ấy, bỗng thèm cảm giác
thay đổi. Thực ra, có lẽ không phải Nguyễn Quang Thiều không ý thức về những
điều nói trên. Ngược lại, dường như đấy là một lựa chọn có chủ ý. Không khó để
nhận thấy càng ngày thơ ông càng “rậm lời” hơn, “thách thức” hơn, văn bản càng
thêm tãi rộng bởi những câu thơ văn xuôi “lổn nhổn, rườm rà, không thèm thu gọn
lại”... Tuy nhiên, trừ khi nhà thơ chỉ viết cho độc giả duy nhất là bản thân,
còn nếu không, việc mải miết chìm đắm trong cảm giác của cá nhân sẽ khiến ông
bỏ mất đi nhiều cơ hội tương tác với độc giả. Nhất là trong hoàn cảnh tiếp nhận
hiện đại, khi người đọc, phần lớn cũng “vội vàng” như chính đời sống của họ,
hẳn sẽ rất sốt ruột khi phải lọc lựa thông tin (dù là những thông tin nội tâm,
cảm giác ấn tượng) giữa một bể ngôn từ hoang dại. Bên cạnh đó, cảm
giác thơ - một yếu tính của thi ca, và là thế mạnh vốn có ở ngòi
bút Nguyễn Quang Thiều, cũng rất dễ tan loãng nếu thường xuyên bị “dìm” trong
những tổ hợp từ ngữ rườm rà, thiếu sự chọn lựa, tinh tỉa. Sự thật là thơ luôn
cần một độ gọn và sáng nhất định.
Với Nguyễn Quang Thiều,“Gọi
tên linh hồn đất/ Bằng cách gieo âm tiết của riêng mình” là một lựa chọn,
một xác tín. Tiếng thơ “khàn và vang dội” ấy (theo cách ông nói về J.
Brodsky) thực sự đã tạo nên một tiếng rền mạnh mẽ trên thi đàn thơ Việt đương
đại.
Vinh,
3/2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét